Lac Viet Humanistic Culture

Sunday, April 24, 2016

NGUYỄN TIẾN CẢNH - NHỮNG TỒN TÍCH CỦA CỘNG SẢN TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO / LÀM SAO SỐNG CHUNG VỚI CỘNG SẢN ĐỂ HÀNH ĐẠO


LÀM SAO ĐỂ SỐNG CHUNG VỚI CỘNG SẢN ĐỂ HÀNH ĐẠO

Đức HY Phạm minh Mẫn đã có lúc yêu cầu trí thức công giáo / câu lạc bộ Nguyễn văn Bình dựa vào kinh nghiệm sống nơi Giáo Hội miền Bắc trước 1975 và Giáo Hội miền Nam sau 1975 nghiên cứu tìm phương cách làm sao để giữ đạo, sống đạo và hành đạo. Lúc đó ở miền Nam có người cho rằng vì Giáo Hội miền Bắc từ 1945 đến 1975 cương quyết không hợp tác với cộng sản nên bị trù dập, đàn áp và cô lập về mọi mặt trong khi Giáo Hội miền Nam được thong dong vì đã hòa đồng hợp tác ?

Bối cảnh hai miền Nam Bắc hoàn toàn khác nhau từ chính trị văn hóa xã hội đến tôn giáo. Dĩ nhiên Giáo Hội rất ưu tư về tình trạng sa sút luân lý đạo đức của đất nước và của Giáo Hội và ước mong có cơ hội, hoàn cảnh được tự do để chăm lo, sửa đổi giáo hội và xã hội. Điều đó cần phải có sự hợp tác hay ít ra là đồng ý của chính quyền để mình tự do làm công tác bác ái, xã hội, y tế và văn hóa, giáo dục….Nhưng trường học, bệnh viện, cơ sở bác ái…đã bị cộng sản tịch thu hết rồi.

Không thể nói cách sống của Giáo Hội miền Bắc sai và của miền Nam đúng hay ngược lại. Nói vậy là vô tình đã rơi vào bẫy của cs chủ trương gây chia rẽ, phân hóa, đố kỵ đúng như nhận xét của HY Bonizac. Không phải Giáo Hội miền Bắc không chịu hợp tác với nhà nước mà phải nói Giáo Hội không hợp tác với cái ác. Giáo Hội miền Bắc bị trù dập, tàn phá nhưng đức tin của họ không mất, trái lại hoa trái tốt vẫn nảy nở nơi miền đất khô cằn hưu quạnh đó. Biết bao anh hùng thánh đã thể hiện nơi Giáo Hội miền Bắc, đúng như Đức HY Bozanic đã nói : « Khi mà con người dựng nên bức màn sắt ngăn cách thì Thiên Chúa lại gieo hạt giống như những tặng phẩm của đời sống và cho phép nó chết đi…Và rõ ràng là khi người ta cố tình cấm cản sự sống, biến đất lành thành sỏi đá thì chính ở đó lại phát sinh ra hoa trái.. » Một HY Trinh như Khuê, HY Trịnh văn Căn, HY Phạm đình Tụng, một cha Chính Nguyễn văn Vinh, một thày giảng Đỗ bá Lung ở xứ Ngọc Đồng, Hưng Yên và biết bao ông trùm ông trương đã chết rục tù vì quyết giữ niềm tin vào Chúa và cái thiện, đã không mang tiếng hèn nhát, không theo chủ nghĩa thực dụng, thuyết tương đồi, nên danh thơm còn mãi mãi lưu truyền trong lịch sử Giáo hội. Các ngài đâu cần những lời ca ngợi của chính quyền trần thế, lúc chết có vòng hoa phúng điếu lộng lẫy, có lời chia buồn của chủ tịch nước, tổng bí thư đảng, thủ tướng, để nhà nước lấy tên đặt tên đường phố hay cơ sở. Đức HY Tụng lúc nằm xuống chỉ cần tiếng Chúa kêu gọi : «Con đã can trường chịu đựng gian khổ vì ta, hãy về với ta trên thiên đàng. Và đúng vậy Chúa đã chiều lòng ngài không để cho chủ tịch, tổng bí thư, thủ tướng phân ưu, tặng vòng hoa phúng điếu. Các ngài đã là những mục tử, kẻ sĩ chính danh « Tôi trung chỉ thờ có một Chúa » [5] .

Chưa thấy ai chê trách mà chỉ thấy những lời khen, ca ngợi sự can đảm của hàng giáo phẩm và giáo dân miền Bắc, ngược lại những lời phê phán đôi khi gay gắt hàng giáo phẩm miền Nam cả trong sách báo lẫn nơi cửa miệng người dân, đôi khi làm mất cả niềm tin vào đạo của những người ngoài Công Giáo.

GIÁO HỘI MIỀN BẮC : KHÔNG CÒN CHỌN LỰA NÀO KHÁC

Giáo Hội miền Bắc không hoàn toàn hợp tác vói chính quyền cộng sản vì các ngài đã hiểu rõ chủ đích và dã tâm của họ: «Tôn giáo (công giáo) là kẻ thù cần phải tiêu giệt ». Vì có hợp tác hay không thì Giáo Hội vẫn bị trù dập, truy nã bằng cách này hay cách khác. Giáo Hội miền Bắc không còn chọn lựa nào khác.

Giáo Hội miền Bắc từ sông bến Hải trở ra gồm các địa phận Vinh, Thanh Hóa, Bùi Chu, Phát Diệm, Thái Bình, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Hải Phòng và Hanoi. Xin lấy địa phận Hanội là tổng giáo phận thủ đô làm chuẩn để nhận xét và phân tích tình hình.

Giáo Hội miền Bắc bất hạnh vì bị rơi vào thời mà chủ nghĩa cộng sản còn đang mạnh nên họ thẳng tay thi hành chính sách tôn giáo của họ. Giáo Hội miền Nam sau 1975 may mắn hơn, nhất là sau 1989 khi chế độ cộng sản Nga và Đông Âu hoàn toàn xụp đổ, bức màn sắt đã hạ xuống, hơn 2 triệu người dân miền Nam liều chết vượt biển tìm tự do đã làm cho cộng sản luýnh quýnh, thêm kinh tế suy xụp buộc họ phải thay đổi đường lối khiến Giáo Hội miền Nam phần nào dễ thở hơn. Có người quá đơn sơ cho rằng vì Giáo Hội miền Bắc không chịu hợp tác với chính quyền nên Giáo Hội bị bách hại. Năm 1954, khi làn sóng di cư vào Nam đang ồ ạt, ĐC Trịnh như Khuê đã cấm các linh mục không được di cư vào Nam, phải ở lại sống chung với cộng sản. Nhưng vẫn bị đàn áp trù dập tù đầy. Tòa Giám Mục đã từng liên lạc, đối thoại với nhà nước, cả Hồ Chủ Tịch, TT Phạm văn Đồng, nhưng không thành công như vụ thành lập Ủy Ban Liên Lạc người Công Giáo Yêu Nước. Việc họ làm không cần ý kiến của Giáo Hội (6). Cộng sản không bao giờ buông thả những điều cốt lõi của đạo. Giáo Hội miền Bắc đã có lúc phải thà tự đóng cửa tiểu chủng viện và đại chủng viện, sơ tán chủng sinh về với gia đình hơn là để cho chính quyền CS điều khiển, quyền tuyển chọn chủng sinh, định đoạt chương trình giáo dục các chủng sinh, cho người nhà nước vào dạy những môn chính trị trái với giáo lý.

Xin kể một câu chuyện xẩy ra ở nhà thờ lớn Hanội với cha chính xứ kiêm tổng đại diện Nguyễn văn Vinh. Trước ngày lễ Giáng Sinh 1958, nhà nước tự động cho người đến trang hoàng cờ xí ngập trời trước nhà thờ gọi là để mừng Chúa Giáng sinh. Có người báo sự việc cho cha chính Vinh, ngài chạy ra yêu cầu họ ngừng thì kết quả là cha Trịnh văn Căn, phó xứ (sau này lên giám mục rồi hồng y) 12 tháng tù treo, 3 giáo dân Đáng, Chính, Nhiễu bị phạt cảnh cáo, riêng cha chính Vinh bị 18 tháng tù ngồi vì tội phá rối trị an, vu khống xuyên tạc chế độ và gây chia rẽ nhân dân. Cha bị giam ở Hỏa Lò rồi lên Yên Báy kiên giam, biệt giam ở trại Cổng Trời, ác nghiệt nhất, ai đến đó chỉ có chết. Năm 1975 khi cs chiếm được miền Nam, Đức Cha Khuê hỏi chính phủ «Cha Vinh của tôi đâu rồi?» thì được trả lời là tuần sau cha Vinh về. Nhưng cha Vinh đã không bao giờ trở về. Án tù 18 tháng nhưng cha đã kết thúc cuộc đời về với Chúa sau 12 năm ngục tù hành hạ cả thân xác lẫn tinh thần (7).

Ai nói là cộng sản chống phá tôn giáo? Họ giúp đỡ, tạo cơ hội để Giáo Hội tổ chức lễ hội đấy chứ ? Họ cũng đã từng tuyên bố tại Hội Đồng Nhân dân thành phố Hanội trong buổi trao đổi ý kiến với Đức Tổng Giám Mục Ngô quang Kiệt và các cha dòng Chúa Cứu Thế về vụ Tòa Khâm sứ và Thái Hà hồi tháng 9, 2008 là nhà nước đã giúp đỡ, tạo cơ hội dễ dàng cho sinh hoạt tôn giáo nhưng đã bị đức tổng Kiệt phản bác lại rất đích đáng. (8)

Sau vụ Noel 1958 xẩy ra ở nhà thờ lớn với cha chính Vinh, ra điều để cho vui vẻ giữa hai bên nhà nước và công giáo, chính phủ đề nghị với Tòa Giám Mục thành lập một Ủy Ban liên lạc giữa nhà nước và Giáo hội, mọi việc liên quan giữa hai bên phải đi qua ủy ban này, nhưng các thành viên thì Tòa Giám mục không có quyền chọn lựa mà do nhà nước sắp đặt [9]. Tòa Giám mục không đồng ý với tổ chức đó vì biết đây chỉ là lừa bịp, một tổ chức tiền Giáo Hội ly khai giống như ở bên Tàu.

Sau đó, tòa Tổng Giám Mục và các linh mục trí thức nòng cốt của địa phận trở thành có vấn đề. Cha Tổng đại diện Nguyễn văn Vinh, du học Pháp, người rất tài giỏi và cương quyết đã từng chống đối tướng De Lattre de Tassigny thì đã bị đem ra làm vật tế thần để dằn mặt trước rồi, tiếp đến Đức Giám Mục Trịnh như Khuê [10] bị giam lỏng, cấm không cho ra khỏi Tòa giám mục, cha Phạm hân Quynh, du học Pháp về, thư ký TGM bị cô lập, quản thúc tại một giáo xứ ở nhà quê 28 năm (1960-1988), cha Nguyễn trọng Oánh, du hoc Hoa Kỳ về Hanội năm 1955, đúng vào lúc đất nước chia đôi, bị quản thúc biệt giam tại giáo xứ làng quê Truôn Thượng từ 1961 đến 1985 mới được tạm tự do đi lại về giáo xứ Hà Thao thì chết ở đó. Cha Nguyễn văn Thông, du học Bỉ và Pháp về Hanội năm 1955 cùng với cha Oánh cũng bị bắt đem ra tòa kết án 13 năm tù và 3 năm quản chế vì tội tàng trữ sách khiêu dâm, sách báo ngoại quốc và làm gián diệp CIA. Bị giam lúc đầu ở Hỏa Lò 4 năm rồi trại Cổng trời, về Lào Cay rồi lại Cổng trời, rồi lại Hỏa Lò. Cộng chung tất cả là 23 năm tù trong khi án kêu chỉ có 13 năm. Được về nhưng cha vẫn bị quản thúc, cô lập ở một nơi đồng không mông quạnh 10 năm trời nữa (1976-1987). Khi được thả ra thì đã thân già sức kiệt, cha Thông qua đời năm 1991 [11].

Cộng sản chủ trương giết rắn phải chặt đầu. Vậy là tất cả các linh mục ưu tú nòng cốt của địa phận đều bị cô lập, tù đầy cho đến chết, không có được cơ hội giúp Đức Giám Mục, phục vụ Giáo Hội. Các xứ đạo không có linh mục chủ chăn dìu dắt.

Giáo Hội miền Bắc bị trù dập khốn đốn nhưng không tha hóa, bề ngoài trông điêu tàn tưởng là chết, nhưng Giáo Hội không chết. Một cha chính Vinh, cha Thông, cha Oanh, cha Quynh, thầy giảng Đỗ bá Long, giáo dân Lâm văn Túy, các ông trùm ông trương và bao nhiêu giáo dân giáo sĩ vô danh anh hùng khác như những hạt giống được Chúa gieo vào lòng đất, thối đi để sau này sinh ra hoa trái. Tinh thần biểu dương sức mạnh niềm tin qua những vụ thắp nên cầu nguyện cho công lý ở Thái Hà, Tòa Khâm sứ, Đồng Chiêm, Tam Tòa, Mỹ Yên v.v. chính là những hoa trái ấy đang làm cho Giáo Hội sống lại, cho một ngày mai tươi sáng huy hoàng hơn, đã làm mọi người thán phục.

Nguyễn Tiến Cảnh
Fleming Island, Florida
April 4, 2016

(Còn tiếp)


No comments:

Post a Comment