Lac Viet Humanistic Culture
Saturday, April 30, 2016
Friday, April 29, 2016
Thursday, April 28, 2016
Wednesday, April 27, 2016
Sunday, April 24, 2016
NGUYỄN TIẾN CẢNH - NHỮNG TỒN TÍCH CỦA CỘNG SẢN TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO / HỘI NGHỊ ZAGREB: VỀ NHỮNG DI HẠI CỦA CỘNG SẢN
Vatican
hiện rất quan tâm đến tình trạng của các nước hậu cộng sản và đang tìm cách xây
dựng lại một Giáo Hội đích thực của mình. Những tồn tích của chế độ cộng sản
còn đọng lại với những ảnh hưởng trầm trọng của nó về mọi mặt cả vật chất lẫn
tinh thần, từ văn hóa, giáo dục, tôn giáo, xã hội đến kinh tế, chính trị…đang
là những ưu tư không nhỏ của những vị lãnh đạo Giáo Hội tại những nước hậu cộng
sản. Ở đây xin chỉ bàn vấn đề tinh thần một cách tổng quát dựa vào những nhận
xét của các giám mục Đông Âu được trình bày tại hội nghị ở thủ đô Croatia mới
đây, rồi từ đó rút ra một vài nhận xét và bài học cho Giáo Hội Việt Nam [1].
HÔI NGHỊ ZAGREB: Về những di hại của Cộng
Sản
“Những vết thương và đổ vỡ do chủ nghĩa
cộng sản gây ra hiện vẫn còn tồn tại và đang đầu độc đời sống con người và xã hội
nơi những quốc gia đã một thời phải sống sau bức màn sắt”.
Đó
là thông điệp của các giám mục Đông Âu đã đưa ra tại cuộc hội thảo chuyên đề
ngày 11-2-2009 tại Zagreb, thủ đô Croatia: “Sứ
mạng của Giáo Hội ở những nước Trung-Đông-Âu 20 năm sau khi chế độ cộng sản xụp
đổ: 1989-2009. Đây là hội nghị chuyên đề thứ ba tiếp theo hai hội nghị trước
ở Budapest năm 2004 và ở Prague năm 2007 về cùng một chủ đề như vậy kể từ khi bức
tường Bá Linh xụp đổ vào năm 1989. Hồng y TGM Zagreb Josip Bozanic, phó CT HĐGM
Âu Châu là chủ tịch hội nghị đã mời 13 giám mục đại diện HĐGM Âu Châu tham dự để
đóng góp ý kiến.
Ngày
khai mạc Hội Nghị cũng là ngày kỷ niệm HY Alojzije Stepinac được phong Á Thánh.
Các đề tài thảo luận cũng đặc biệt chú trọng vào những tàn tích tinh thần do cộng
sản để lại và những di sản của các vị tử vì đạo dưới trào cộng sản. Trong bài kết
thúc hội nghị, HY Bozinac đã ví “niềm tin của Đức HY Stepinac và của các vị tử
vì đạo khác như là kết quả của những khổ đau, nhục nhằn, nhưng can trường và
cương quyết không lùi bước trước những cực hình, áp đặt và dụ dỗ đầy mưu mô
thâm độc. Ngài bình luận:
-
Bức màn sắt là hình ảnh của hận thù, chia rẽ, đổ vỡ, ngăn cách và vị kỷ. Nó được
dựng nên bởi con người với chủ trương ngăn cản con người đến với con người. Chủ
trương đó còn thâm độc hơn nữa là ngăn cản con người hướng về Thiên Chúa và nhận
biết tình thương yêu của Người.
-
Khi mà con người - ĐHY nói tiếp - dựng nên bức tường ngăn cách đó thì Thiên
Chúa lại gieo hạt giống như những tặng phẩm của đời sống và cho phép nó chết
đi….Và rõ ràng là khi người ta cố tình cấm cản sự sống, biến đất lành thành sỏi
đá thì chính đất đó lại phát sinh ra hoa trái.
….CHO ĐẾN BÂY GIỜ
Đức
Hồng Y báo động: “Mặc dù chúng ta có cảm
tưởng là hệ thống cai trị của chủ nghĩa cộng sản đã tan vỡ, ngừng không còn hoạt
động với những hình thức như trước kia nữa, nhưng nó đã biến hình đổi dạng thay
cách, trong khi môi trường, đất sống là nơi con cháu chúng ta, thế hệ trẻ sinh
ra phải hít thở để sống đã bị chúng làm vấy bẩn nhiễm độc rồi”.
Thực
vậy, một trong những thắc mắc mà đa số các hội thảo viên lưu ý các giám mục là
cho dù chủ nghĩa cộng sản đã xụp đổ, nhưng “cấu trúc của nó vẫn còn tồn tại cả
về lập pháp lẫn tư pháp, cả về kinh tế, giáo dục lẫn văn hóa” và đặc biệt “cung
cách suy tư của con người, tâm tình đối xữ với nhau, những biến cố, hiện tượng ở
quá khứ vẫn âm thầm ẩn náu dưới bức màn che thầm kín gọi là yên lặng”.
Đức
hồng y đặt câu hỏi và lưu ý mọi người, nhất là những vị có trách nhiệm trong
Giáo hội để tìm hiểu lý do hầu có phương cách sửa chữa.
-Vậy
thì làm sao có thể cắt nghĩa được hiện tượng là đã 20 năm sau khi chế độ cộng sản
xụp đổ mà người ta vẫn không dám nhìn nhận sự thật, chẳng hạn như ở Croatia người
ta vẫn né tránh không dám nói đến ĐHY Stepinac? [2]
Ngài
tiếp tục bình luận:
-Những
con cái của dối trá đã thu nhặt từng mảnh vụn, yếu tố nhỏ của “Bức Màn”, lợi dụng
nó để ẩn náu và làm thành một lớp sương mù bao phủ sự thật về cả cá nhân lẫn cơ
quan tổ chức. Nhờ bức màn còn sót lại đó người ta lại reo mầm mống chia rẽ và
nghi ngờ.
Đức
Hồng Y Bozinac nói tiếp:
-Sự
thật là bức màn sắt đó đã hạ xuống rồi, hệ thống cộng sản đã tan vỡ, nhưng những
mảnh nhỏ cấu kết nên nó vẫn còn tồn tại lại rất ngoan cố, luôn luôn cổ võ với
cùng môt loại dối trá, sai lac, bịa đặt cùng những tương quan liên hệ với quá
khứ, không chỉ về mặt chính trị mà cả về giáo dục, khoa học và giảng huấn.
-Hãy
coi chừng - Ngài cũng báo động- những loại tuyên truyền quảng bá rùm beng tiền
hậu bất nhất ấy về lịch sử, khảo cổ về loài người, nhất là vấn đề đời sống con
người, xã hội và gia đình.
Ngài
nhắn nhủ:
-
“Chúng ta sẽ không bao giờ đồng ý hay cho phép tạo bất cứ một ảnh hưởng chính
trị nào liên quan đến những vấn nại trên, bởi vì đó không phải là vấn đề để con
người đồng ý hay không mà đó chính là trung tâm điểm của sự thật mà chúng ta là
nguồn gốc”.
Một
vấn nại nữa mà Đức Hồng Y nhắc tới là vấn đề hiệp thông giữa các Giáo hội, một
sự hiệp thông mà những tay gọi là “siêu
lý tưởng cố gắng phá vỡ, ngăn cách” những tín hữu ở phương Đông với những
tín hữu phương Tây. Ngài kêu gọi những người hiện diện “đừng quên rằng các Giáo Hội trong thế giới tự do luôn luôn yểm trợ
chúng ta rất mạnh mẽ và đắc lực, bởi vì nhờ sự hiệp thông, thống nhất và đoàn kết
đó mà Giáo hội đã tiến những bước tiến tử đạo vĩ đại”.
Trong
một lúc khác Đức Hồng y Bozanic đã lưu ý mọi người: Đây là lúc “phải rao truyền
Tin Mừng một cách mới mẻ và can đảm hầu khôi phục lại căn gốc Kitô giáo thực sự
của chúng ta, là lúc chúng ta phải trả lời / đáp lại những thách đố và khiêu
khích của những người chủ trương thuyết loại suy và nhất là tính độc đoán của
những người chủ trương thuyết tương đối”.
Các
Giám Mục cũng đã nhắc mọi người nên để ý đến những thách đố và đòi hỏi của việc
toàn cầu hóa, đạo đức sinh học, khoa thần kinh học, vấn đề di dân và việc thiết
lập một trật tự mới thế giới không kém gì việc bảo vệ tự do lương tâm và những
lý tưởng mới, nhất là những lý tưởng liên quan đến đời sống con người và gia
đình.
KHÔI PHỤC LẠI QUÁ KHỨ
Văn
phòng thư ký của Đức Hồng y chủ tịch hội nghị đã đưa ra một lời kêu gọi: “ Chế
độ cộng sản đã qua đi, nhưng tàn dư của nó vẫn tồn tại cùng với những vết
thương vẫn ảnh hưởng sâu đậm trên con người và xã hội. Vì vậy cần phải có sự
phù trợ giúp đỡ của Thiên Chúa và Giáo Hội để những vết thương đổ vỡ ấy mau được
hàn gắn lại”.
Tất
cả các nhóm thảo luận đều đặc biệt chú ý đến việc cần thiết phải có Giáo Hội
giúp đỡ hầu khơi động lại “Ký Ức Lịch Sử” về những năm tháng dưới chế độ cộng sản
để chiến đấu chống lại phong cách và khuynh hướng “cố quên lịch sử”, “NÍN LẶNG DĨ VÃNG”, không muốn nói đến, nhắc lại
những việc, những biến cố đã xẩy ra thực, nhất là về những vị tử vì đạo đã hy
sinh mạng sống trong ngục tù hay dưới bất cứ hình thức nào khác vì con người,
vì Chúa và Giáo Hội.
Một
đặc biệt nữa là nhu cầu giới trẻ, họ cần phải được giúp đỡ, hướng dẫn để chúng “nhận
biết ra lịch sử đích thực” và “luôn
luôn ghi nhớ trong tâm khảm mình những vị đã ‘vì Niềm Tin, vì Chúa, vì Con
Người’ mà hy sinh mạng sống”.
Sau
cùng các Giám mục đã quyết định tổ chức một Hội Nghị về Lịch Sử để thảo luận về
đời sống của Giáo Hội và những việc làm của giáo dân trong thời kỳ cộng sản.
MỘT VÀI NHẬN XÉT GÓP Ý
Qua
nội dung của Hội Nghị, chúng ta thấy những nhận xét của Hồng y Bozanic và giáo
dân đã một thời sống dưới chế độ cộng sản cũng không khác những gì mà chúng ta
thấy ở Việt Nam chúng ta bây giờ. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi vì cộng sản thì ở
đâu cũng vậy, nghĩa là độc tài, dối trá, hận thù, chia rẽ và vị kỷ. Và, tôn
giáo là thuốc phiện mê hoặc con người, cần phải tiêu diệt.
Cộng
sản dạy con người gian dối. Gian dối với chính mình và với người. Đối với cộng
sản, không ai có quyền nghĩ và hành động khác với họ. Nghĩ khác, làm khác là phải
bị tiêu giệt. Do đó muốn sống thì phải nói dối, làm gian đúng theo lời bác, đảng
và nhà nước dù có trái với ý nghĩ và lương tâm mình.
Cộng
sản không nhân nhượng với kẻ thù. Họ quan niệm “giết lầm hơn tha lầm”. Trong
cuôc đấu tố cải cách ruộng đất ở miền Bắc sau 1954 có câu:“Đào tận gốc Tróc tận rễ”, nghĩa
là không để sót một tên cường hào ác bá ác ôn nào. Ở miến Nam Việt Nam sau
30-4-75, những người lính VNCH đã chết, có muốn mồ yên mả đẹp cũng không được,
đã bị đào xới vất bỏ không thương tiếc. Một cái bia kỷ niệm những người vượt biển
chết trên đường tìm tự do ở những nơi xa xôi mãi tận Nam Dương cũng không được
phép tồn tại….
[3]
Từ dối
trá, hận thù đi đến vị kỷ quả không xa. Con người sống trong xã hội cộng sản chỉ
biết có mình, chỉ lo cho mình để sống còn, bởi lẽ người cộng sản buộc mọi người
phải kiểm thảo, tố cáo nhau. Tình người không còn, luân thường đạo lý cũng mất.
Một ông bạn về Việt Nam thăm gia đình, ông đã cố gắng hòa đồng để không ai nhận
ra mình là “việt kiều”, nhưng vẫn bị lộ tẩy ngay ở Saigon. Tại sao?
- Bà bán cho tôi ly café.
Bà chủ quán đem ly café ra cho ông bạn.
- Cám ơn bà chủ.
- Ông là việt kiều phải không? Bà chủ hỏi.
- Sao mà bà biết?
- Bởi vì ông biết “cám ơn”. Ở đây có ai cám ơn ai bao giờ
đâu!
Trong xã hội chủ nghĩa cs, chửi tục / chửi thề là chuyện
thường bởi vì cha mẹ đâu có quyền gì trong gia đình mà là bác và đảng, ngay cả
học đường bậc tiểu học tuyệt đối không có môn học Công Dân giáo dục. Quí bạn thử
nghe một em học sinh lớp nhất tiểu học ở miền Bắc định nghĩa 2 chữ dũng cảm.
- Dũng cảm là gì, em Tuấn? Cô giáo hỏi
- Nghĩa là…. là…đéo
sợ. (4)
Đấy, luân lý đạo đức của con người dưới chế độ này là như
thế. Rồi đây các thế hệ trẻ miền Nam cũng sẽ vậy thôi .
Phải chăng con người sinh ra nơi đất cằn sỏi đá, đã hít
thở không khí bị ô nhiễm thì tất nhiên phải bị ngộ độc.
Một câu chuyện khác do chính người viết chứng kiến khi
còn trong trại tù cải tạo. Một hôm mấy anh em tù ngồi nói truyện với anh quản giáo.
Anh quản giáo khoe :
- Tôi sắp đi phép về Bắc một tháng. Đã gần 30 năm xa nhà
đi Nam chưa bao giờ được đi phép, nay hòa bình rồi mới được đi đấy.
- Chà! lâu ngày như vậy - tụi tôi lên tiếng- gặp lại chị
chắc anh vui lắm phải không ?
- Ấy chết! đâu có được. Mấy ngày đầu, tôi còn phải nghe
ngóng xem vợ tôi nó thế nào chứ đâu có bỗng chốc tự nhiên nhảy vào giường với
nó ngay được !!! .
Một ông bạn về Việt Nam chơi, vì sợ thất lạc giấy thông
hành Visa / Passport gửi bà chị và ông anh rể giữ hộ. Sau hơn một tuần đi chơi
khắp Trung Nam Bắc, trước khi trở lại Hoa Kỳ, anh xin bà chị cho lại cái Visa,
nhưng ông anh bà chị nhất định đòi chuộc lại với giá 5000 đô. May mà anh ta còn đủ tiền nên cắn
răng nộp tiền chuộc lại tờ thông hành!
Biết bao nhiêu điều chướng tai gai mắt thường xuyên xẩy
ra hàng ngày từ gia đình đến xã hội, học đường, cho chí cả tôn giáo, tất cả đều
đổ vỡ. Riết rồi lâu ngày cái bất thường trở thành bình thường, chẳng ai thắc mắc.
Một chính quyền tham nhũng, chỉ lo đàn áp bóc lột dân và
những người có tư tưởng khác với họ. Giáo dục học đường mất căn bản, bằng cấp
giả. Trong giảng huấn, thì lịch sử bị bóp méo, dối trá và sai lạc, không dám
nhìn nhận sự thật, quên đi sự thật, nói một đàng làm một nẻo. Như vậy thì xã
hôi làm sao không tha hóa được. Xì ke ma túy, cướp giật nhan nhản hàng ngày
trên hè phố, đạo đức suy đồi, ăn gian nói dối lửa đảo nhau. Riết rồi chẳng ai
tin ai, ngay cả trong gia đình cha mẹ vợ chồng con cái với nhau. Ngoài đường,
thấy người bị nạn kêu cứu thì dửng dưng. Vô cảm ở Việt Nam đã thành hiện tượng
tự nhiên, ngay cả trong Giáo Hội nơi các viên chức cao cấp !
Nạn bạo hành ở học đường là một dịch nạn lớn trong cái xã
hội suy đồi của XHCN Việt Nam hiện nay. Ngay trong lớp học một học sinh đánh một
học sinh một cách tàn bạo và hung hãn mà tuyệt nhiên không thấy ai ngăn cản,
ngay cả thầy cô dù chỉ bằng lời nói mà chỉ thấy ồn ào tiếng chửi thề Đ.M, đánh cho chết mẹ luôn…Tôi không hiều các
thầy cô hay bộ Giáo dục Đào tạo dạy học sinh cái gì. Chắc họ không bao giờ quên
dạy các em học sinh theo gương đạo đức
bác Hồ ?? và sẽ đưa Việt Nam tụt hậu giáo dục và đạo đức cho cả nước và tạo
ra một thế hệ vô cảm, vô luân và mất nhân tính.
Đó là chủ đích muốn ngăn cản con người đến với con người,
con người đến với Thiên Chúa. Tôn giáo là Đạo là Đường, dẫn con người đến chân
thiện mỹ, dạy người ta biết thương yêu quí trọng nhau, giúp đỡ nhau…Nhưng cộng
sản coi tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc con người, là kẻ thù, nhất là công
giáo, cần phải hủy giệt. Không giệt được thì bằng mọi cách xâm nhập để gây rối,
phàm tục hóa, làm mất uy tín, cô lập cho tê liệt luôn.
Loại văn hóa đó là văn hóa gì ? Có người gọi là văn
hóa « đồ đểu ».
Cộng sản rất thâm độc, còn tạo phân hóa, nghi kỵ giữa
giáo sĩ với nhau, địa phương này địa phương khác như chúng ta thấy ở Giáo Hội
miền Nam do Ủy Ban Công Giáo và Dân Tộc với Huỳnh công Minh cầm đầu mà chính loại
ủy ban này (Ủy Ban Công Giáo Yêu Nước) đã không thành công ở Giáo Hội miền Bắc.
Trong HĐGM người ta thường nói đến « Tam Ca Áo Tím » là nhóm giám mục
miền Nam đã khuynh đảo, tạo bè phái trong HĐGM. Chẳng lạ gì đã có những thay đổi
bất công, vô lý như vụ TGM Ngô quang Kiệt và GM Nguyễn văn Nhơn ở Hanoi, và người
ta còn phỏng đoán có lẽ không sai là sẽ xẩy ra như vậy khi HY Nguyễn văn Nhơn đến
lúc già yếu phải về hưu. Và, còn nhiều bất đồng bên trong HĐGMVN là cơ chế đầu
não của Giáo Hội Việt Nam. Có vị muốn làm theo ý nhà nước, có vị không. Kình chống
nhau, chia rẽ là thế. Nước đục cs thả câu hưởng lợi.
Như vậy thì làm sao con người có thể đến với Thiên Chúa
và nhận biết tình thương yêu của Người. Cộng sản chưa đạt được hoàn toàn mục
đích của họ nhưng đã phần nào ở miền Nam Việt Nam.
Nguyễn Tiến Cảnh
Fleming Island, Florida
April 4, 2016
NGUYỄN TIẾN CẢNH - NHỮNG TỒN TÍCH CỦA CỘNG SẢN TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO / LÀM SAO SỐNG CHUNG VỚI CỘNG SẢN ĐỂ HÀNH ĐẠO
LÀM SAO
ĐỂ SỐNG CHUNG VỚI CỘNG SẢN ĐỂ HÀNH ĐẠO
Đức HY Phạm minh Mẫn đã có lúc yêu cầu trí thức công giáo
/ câu lạc bộ Nguyễn văn Bình dựa vào kinh nghiệm sống nơi Giáo Hội miền Bắc trước
1975 và Giáo Hội miền Nam sau 1975 nghiên cứu tìm phương cách làm sao để giữ đạo,
sống đạo và hành đạo. Lúc đó ở miền Nam có người cho rằng vì Giáo Hội miền Bắc
từ 1945 đến 1975 cương quyết không hợp tác với cộng sản nên bị trù dập, đàn áp
và cô lập về mọi mặt trong khi Giáo Hội miền Nam được thong dong vì đã hòa đồng
hợp tác ?
Bối cảnh hai miền Nam Bắc hoàn toàn khác nhau từ chính trị
văn hóa xã hội đến tôn giáo. Dĩ nhiên Giáo Hội rất ưu tư về tình trạng sa sút
luân lý đạo đức của đất nước và của Giáo Hội và ước mong có cơ hội, hoàn cảnh
được tự do để chăm lo, sửa đổi giáo hội và xã hội. Điều đó cần phải có sự hợp
tác hay ít ra là đồng ý của chính quyền để mình tự do làm công tác bác ái, xã hội,
y tế và văn hóa, giáo dục….Nhưng trường học, bệnh viện, cơ sở bác ái…đã bị cộng
sản tịch thu hết rồi.
Không thể nói cách sống của Giáo Hội miền Bắc sai và của
miền Nam đúng hay ngược lại. Nói vậy là vô tình đã rơi vào bẫy của cs chủ
trương gây chia rẽ, phân hóa, đố kỵ đúng như nhận xét của HY Bonizac. Không phải
Giáo Hội miền Bắc không chịu hợp tác với nhà nước mà phải nói Giáo Hội không hợp
tác với cái ác. Giáo Hội miền Bắc bị trù dập, tàn phá nhưng đức tin của họ
không mất, trái lại hoa trái tốt vẫn nảy nở nơi miền đất khô cằn hưu quạnh đó.
Biết bao anh hùng thánh đã thể hiện nơi Giáo Hội miền Bắc, đúng như Đức HY
Bozanic đã nói : « Khi mà con người dựng
nên bức màn sắt ngăn cách thì Thiên Chúa lại gieo hạt giống như những tặng phẩm
của đời sống và cho phép nó chết
đi…Và rõ ràng là khi người ta cố tình cấm cản sự sống, biến đất lành thành sỏi
đá thì chính ở đó lại phát sinh ra hoa trái.. » Một HY Trinh như Khuê, HY
Trịnh văn Căn, HY Phạm đình Tụng, một cha Chính Nguyễn văn Vinh, một thày giảng
Đỗ bá Lung ở xứ Ngọc Đồng, Hưng Yên và biết bao ông trùm ông trương đã chết rục
tù vì quyết giữ niềm tin vào Chúa và cái thiện, đã không mang tiếng hèn nhát,
không theo chủ nghĩa thực dụng, thuyết tương đồi, nên danh thơm còn mãi mãi lưu
truyền trong lịch sử Giáo hội. Các ngài đâu cần những lời ca ngợi của chính quyền
trần thế, lúc chết có vòng hoa phúng điếu lộng lẫy, có lời chia buồn của chủ tịch
nước, tổng bí thư đảng, thủ tướng, để nhà nước lấy tên đặt tên đường phố hay cơ
sở. Đức HY Tụng lúc nằm xuống chỉ cần tiếng Chúa kêu gọi : «Con đã can trường chịu đựng gian khổ vì ta, hãy về với ta trên thiên
đàng. Và đúng vậy Chúa đã chiều lòng ngài không để cho chủ tịch, tổng bí
thư, thủ tướng phân ưu, tặng vòng hoa phúng điếu. Các ngài đã là những mục tử,
kẻ sĩ chính danh « Tôi trung chỉ thờ có một
Chúa » [5]
.
Chưa thấy ai chê trách mà chỉ thấy những lời khen, ca ngợi
sự can đảm của hàng giáo phẩm và giáo dân miền Bắc, ngược lại những lời phê
phán đôi khi gay gắt hàng giáo phẩm miền Nam cả trong sách báo lẫn nơi cửa miệng
người dân, đôi khi làm mất cả niềm tin vào đạo của những người ngoài Công Giáo.
GIÁO HỘI
MIỀN BẮC : KHÔNG CÒN CHỌN LỰA NÀO KHÁC
Giáo Hội miền Bắc không hoàn toàn hợp tác vói chính quyền
cộng sản vì các ngài đã hiểu rõ chủ đích và dã tâm của họ: «Tôn giáo (công
giáo) là kẻ thù cần phải tiêu giệt ». Vì có hợp tác hay không thì Giáo Hội vẫn
bị trù dập, truy nã bằng cách này hay cách khác. Giáo Hội miền Bắc không còn chọn
lựa nào khác.
Giáo Hội miền Bắc từ sông bến Hải trở ra gồm các địa phận
Vinh, Thanh Hóa, Bùi Chu, Phát Diệm, Thái Bình, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Hải Phòng
và Hanoi. Xin lấy địa phận Hanội là tổng giáo phận thủ đô làm chuẩn để nhận xét
và phân tích tình hình.
Giáo Hội miền Bắc bất hạnh vì bị rơi vào thời mà chủ
nghĩa cộng sản còn đang mạnh nên họ thẳng tay thi hành chính sách tôn giáo của
họ. Giáo Hội miền Nam sau 1975 may mắn hơn, nhất là sau 1989 khi chế độ cộng sản
Nga và Đông Âu hoàn toàn xụp đổ, bức màn sắt đã hạ xuống, hơn 2 triệu người dân
miền Nam liều chết vượt biển tìm tự do đã làm cho cộng sản luýnh quýnh, thêm
kinh tế suy xụp buộc họ phải thay đổi đường lối khiến Giáo Hội miền Nam phần
nào dễ thở hơn. Có người quá đơn sơ cho rằng vì Giáo Hội miền Bắc không chịu hợp
tác với chính quyền nên Giáo Hội bị bách hại. Năm 1954, khi làn sóng di cư vào
Nam đang ồ ạt, ĐC Trịnh như Khuê đã cấm các linh mục không được di cư vào Nam,
phải ở lại sống chung với cộng sản. Nhưng vẫn bị đàn áp trù dập tù đầy. Tòa
Giám Mục đã từng liên lạc, đối thoại với nhà nước, cả Hồ Chủ Tịch, TT Phạm văn
Đồng, nhưng không thành công như vụ thành lập Ủy Ban Liên Lạc người Công Giáo
Yêu Nước. Việc họ làm không cần ý kiến của Giáo Hội (6). Cộng sản không bao giờ
buông thả những điều cốt lõi của đạo. Giáo Hội miền Bắc đã có lúc phải thà tự
đóng cửa tiểu chủng viện và đại chủng viện, sơ tán chủng sinh về với gia đình
hơn là để cho chính quyền CS điều khiển, quyền tuyển chọn chủng sinh, định đoạt
chương trình giáo dục các chủng sinh, cho người nhà nước vào dạy những môn
chính trị trái với giáo lý.
Xin kể một câu chuyện xẩy ra ở nhà thờ lớn Hanội với cha
chính xứ kiêm tổng đại diện Nguyễn văn Vinh. Trước ngày lễ Giáng Sinh 1958, nhà
nước tự động cho người đến trang hoàng cờ xí ngập trời trước nhà thờ gọi là để
mừng Chúa Giáng sinh. Có người báo sự việc cho cha chính Vinh, ngài chạy ra yêu
cầu họ ngừng thì kết quả là cha Trịnh văn Căn, phó xứ (sau này lên giám mục rồi
hồng y) 12 tháng tù treo, 3 giáo dân Đáng, Chính, Nhiễu bị phạt cảnh cáo, riêng
cha chính Vinh bị 18 tháng tù ngồi vì tội phá rối trị an, vu khống xuyên tạc chế
độ và gây chia rẽ nhân dân. Cha bị giam ở Hỏa Lò rồi lên Yên Báy kiên giam, biệt
giam ở trại Cổng Trời, ác nghiệt nhất, ai đến đó chỉ có chết. Năm 1975 khi cs
chiếm được miền Nam, Đức Cha Khuê hỏi chính phủ «Cha Vinh của tôi đâu rồi?» thì
được trả lời là tuần sau cha Vinh về. Nhưng cha Vinh đã không bao giờ trở về.
Án tù 18 tháng nhưng cha đã kết thúc cuộc đời về với Chúa sau 12 năm ngục tù
hành hạ cả thân xác lẫn tinh thần (7).
Ai nói là cộng sản chống phá tôn giáo? Họ giúp đỡ, tạo cơ
hội để Giáo Hội tổ chức lễ hội đấy chứ ? Họ cũng đã từng tuyên bố tại Hội
Đồng Nhân dân thành phố Hanội trong buổi trao đổi ý kiến với Đức Tổng Giám Mục
Ngô quang Kiệt và các cha dòng Chúa Cứu Thế về vụ Tòa Khâm sứ và Thái Hà hồi
tháng 9, 2008 là nhà nước đã giúp đỡ, tạo cơ hội dễ dàng cho sinh hoạt tôn giáo
nhưng đã bị đức tổng Kiệt phản bác lại rất đích đáng. (8)
Sau vụ Noel 1958 xẩy ra ở nhà thờ lớn với cha chính Vinh,
ra điều để cho vui vẻ giữa hai bên nhà nước và công giáo, chính phủ đề nghị với
Tòa Giám Mục thành lập một Ủy Ban liên lạc giữa nhà nước và Giáo hội, mọi việc
liên quan giữa hai bên phải đi qua ủy ban này, nhưng các thành viên thì Tòa
Giám mục không có quyền chọn lựa mà do nhà nước sắp đặt [9].
Tòa Giám mục không đồng ý với tổ chức đó vì biết đây chỉ là lừa bịp, một tổ chức
tiền Giáo Hội ly khai giống như ở bên Tàu.
Sau đó, tòa Tổng Giám Mục và các linh mục trí thức nòng cốt
của địa phận trở thành có vấn đề. Cha Tổng đại diện Nguyễn văn Vinh, du học
Pháp, người rất tài giỏi và cương quyết đã từng chống đối tướng De Lattre de
Tassigny thì đã bị đem ra làm vật tế thần để dằn mặt trước rồi, tiếp đến Đức
Giám Mục Trịnh như Khuê [10] bị giam lỏng, cấm không cho ra khỏi
Tòa giám mục, cha Phạm hân Quynh, du học Pháp về, thư ký TGM bị cô lập, quản
thúc tại một giáo xứ ở nhà quê 28 năm (1960-1988), cha Nguyễn trọng Oánh, du
hoc Hoa Kỳ về Hanội năm 1955, đúng vào lúc đất nước chia đôi, bị quản thúc biệt
giam tại giáo xứ làng quê Truôn Thượng từ 1961 đến 1985 mới được tạm tự do đi lại
về giáo xứ Hà Thao thì chết ở đó. Cha Nguyễn văn Thông, du học Bỉ và Pháp về
Hanội năm 1955 cùng với cha Oánh cũng bị bắt đem ra tòa kết án 13 năm tù và 3
năm quản chế vì tội tàng trữ sách khiêu dâm, sách báo ngoại quốc và làm gián diệp
CIA. Bị giam lúc đầu ở Hỏa Lò 4 năm rồi trại Cổng trời, về Lào Cay rồi lại Cổng
trời, rồi lại Hỏa Lò. Cộng chung tất cả là 23 năm tù trong khi án kêu chỉ có 13
năm. Được về nhưng cha vẫn bị quản thúc, cô lập ở một nơi đồng không mông quạnh
10 năm trời nữa (1976-1987). Khi được thả ra thì đã thân già sức kiệt, cha
Thông qua đời năm 1991 [11].
Cộng sản chủ trương giết rắn phải chặt đầu. Vậy là tất cả
các linh mục ưu tú nòng cốt của địa phận đều bị cô lập, tù đầy cho đến chết,
không có được cơ hội giúp Đức Giám Mục, phục vụ Giáo Hội. Các xứ đạo không có
linh mục chủ chăn dìu dắt.
Giáo Hội miền Bắc bị trù dập khốn đốn nhưng không tha
hóa, bề ngoài trông điêu tàn tưởng là chết, nhưng Giáo Hội không chết. Một cha
chính Vinh, cha Thông, cha Oanh, cha Quynh, thầy giảng Đỗ bá Long, giáo dân Lâm
văn Túy, các ông trùm ông trương và bao nhiêu giáo dân giáo sĩ vô danh anh hùng
khác như những hạt giống được Chúa gieo vào lòng đất, thối đi để sau này sinh
ra hoa trái. Tinh thần biểu dương sức mạnh niềm tin qua những vụ thắp nên cầu nguyện cho công lý ở Thái Hà, Tòa Khâm sứ,
Đồng Chiêm, Tam Tòa, Mỹ Yên v.v. chính là những hoa trái ấy đang làm cho Giáo Hội
sống lại, cho một ngày mai tươi sáng huy hoàng hơn, đã làm mọi người thán phục.
Nguyễn Tiến Cảnh
Fleming Island, Florida
April 4, 2016
NGUYỄN TIẾN CẢNH - NHỮNG TỒN TÍCH CỦA CỘNG SẢN TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO / GIÁO HỘI MIỀN NAM SAU 1975
GIÁO HỘI
MIỀN NAM SAU 1975
Nhìn vào các tội danh mà cộng sản áp đặt lên cha chính
Vinh, cha Thông, cha Oánh, cha Quynh, giáo sĩ, giáo dân thì biết chỉ là cái cớ
để họ trù dập, ngăn cách giáo dân với giáo sĩ hầu dễ bề tiêu giệt tôn giáo. Một cựu đại úy quân đội
quốc gia, ông Kiều duy Vĩnh, sau hiệp định Geneve 1954 chia đôi đất nước đã ở lại
miền Bắc và bị tù đày triền miên cho tới năm 1975 đã cho biết «nếu ông có đạo
công giáo, biết làm dấu thánh giá thì ông không thể sống sót cho đến ngày nay» [12].
Ở miền Nam sau 1975, khi CS chưa mở cửa, thì tình trạng xẩy ra cũng giống như ở
miền Bắc sau năm 1954. Ai có thể nói vì Giáo Hội miền Nam chịu hợp tác với nhà
nước nên được yên lành và tự do hành đạo ?
Chúng ta có thể chia Giáo Hội miền Nam làm hai thời kỳ:
Thời kỳ chưa cởi trói và thời kỳ mở cửa.
Thời kỳ
quá độ / chưa cởi trói (1975-1989)
Khi cộng sản tiến chiếm Saigon ngày 30-4-75, Giáo Hội miền
Nam -không kể những người vượt biên chạy trốn ra nước ngoài- những ai ở lại,
giáo dân cũng như giáo sĩ ai cũng muốn hòa nhịp với làn sóng « cánh mạng », vì
nghĩ rằng đất nước đã hòa bình thì phải hợp tác với chính quyền mới để xây dựng
đất nước. Đa số người dân chưa hiểu cộng sản là gì đều nghĩ rằng cs cũng là những
người yêu nước? Tất cả các giáo phận miền Nam đều trao nộp cho chính phủ các cơ
sở từ thiện, giáo dục, nhà thương, trường hoc và đặt mình dưới sự điều khiển của
nhà nước « cách mạng ».
Đức Cha Nguyễn kim Điền, TGM Huế ngay từ đầu đã tuyên bố
«sẵn sàng hợp tác để xây dựng đất nước, sau những năm tháng dài chiến tranh đổ
nát», nhưng cuối cùng cũng chẳng xong. Người cộng sản quyết tâm tiêu giệt tôn
giáo nên không còn chọn lựa nào khác, ngài bắt buộc phải ở tư thế tự vệ rồi
cũng bị trù dập, khủng bố, hàng ngày phải đến trình diện Ủy Ban Nhân dân thành
phố để ‘làm việc’. Cuối cùng Ngài đã chết một cách mờ ám tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Linh mục Nguyễn văn Lý, thư ký của ngài tháng 9-1977 cũng bị bắt vì liên hệ đến
việc phổ biến bài tham luận về Tự Do Tôn Giáo của Đức Tổng Điền, bị kết án 20
năm tù. Rồi tha rồi bắt lại, bắt đi bắt lại cho đến hiện nay vẫn còn đang ngồi
tù. Lm Nguyễn văn Lợi bạn tranh đấu cho tự do tôn giáo của cha Lý cũng bị tù rồi
được tha và bị quản thúc tại gia, không được thi hành thiên chức linh mục cho đến
hiện nay. Tất cả các giám mục ở những thành phố nhỏ xa Saigon đều bị làm khó dễ,
cấm không được di chuyển khỏi Tòa Giám Mục, không được đi Roma viếng mộ hai
thánh tông đồ Phêrô và Phaolo theo luật định như Giám Mục Ban-mê-Thuộc Nguyễn
Huy Mai v.v…Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh Đức Cha Nguyễn văn Bình, TGM Saigòn cầm quốc
xẻng đi thủy lợi mở màn cho chiến dịch hợp tác với chính quyền để xây dựng đất
nước của người Công Giáo nhưng cũng không được yên thân. Cộng sản lập sẵn một Ủy
Ban Công Giáo và Dân Tộc làm trung gian liên lạc với chính quyền, nhưng đó chỉ
là xảo kế giống như Ủy Ban Những Người Công Giáo Yêu Nước Yêu Hòa Bình ở miền Bắc
sau 1954 với mục đích kiểm soát Giáo Hội và chủ trương ly khai. Ủy ban này gồm
những linh mục và giáo dân cộng sản đã từng trục xuất khỏi Saigon đức Khâm sứ
Tòa thánh Le Maitre, đã bắt Đức Giám Mục Nguyễn văn Thuận bỏ tù sau ngày
30-4-75. Tòa giám mục Saigòn chỉ còn một mình Đức Tổng Bình chúng sẽ dễ dàng khống
chế và lừa phỉnh. Bao vây ngài lúc đó toàn là những linh mục và giáo dân cấp tiến.
Thành lập ủy ban này, đoàn cố vấn nọ nói là để giúp ngài điều hành giáo phận
cho qua cơn sóng gió, nhưng bên trong là âm mưu khống chế, làm nội tuyến hầu dễ
bề tiêu diệt Giáo Hội. Linh mục Huỳnh công Minh là đảng viên CS lại làm Tổng đại
diện giáo phận, hẳn tha hồ dòm ngó kiểm soát sinh hoạt của giáo phận, đến nỗi
sau này lúc cuối đời, báo chí ngoại quốc phỏng vấn đức tổng Bình cảm nghĩ của ngài về cộng sản thì ngài chỉ nói gọn «Đến bây giờ tôi vẫn sợ». Xem vậy đủ biết
cái vòng bao vây, kìm kẹp, khủng bố nó ghê gớm thế nào! Cho đến nay đã hơn 40
năm mà Huỳnh công Minh vẫn chễm chệ ngồi ở ghế Tổng Đại diện giáo phận kiêm
chánh xứ nhà thờ Đức Bà, Phó Giám đốc Đại chủng viện, nơi đào tạo các linh mục
tương lai thì thử hỏi CS đã kiểm soát Giáo Hội chặt chẽ thế nào. Vì Đức Cha
Nguyễn văn Bình đã già yếu không thể coi sóc giáo phận được nữa, Tòa Thánh đặt
Giám Mục Huỳnh văn Nghi lên thay thế thì nhà nước bằng mọi cách ngăn cản không
cho ngài về Saigòn nhận chức chỉ vì ngài không đồng ý để Huỳnh công Minh ở vị
trí Tổng Đại diện.
Ai biểu Đức Cha Bình chống đối nhà nước? Vậy mà ngài cũng
vẫn còn sợ ? Giáo Hội cũng vẫn bị điêu linh, không chết như giáo hội miền Bắc,
nhưng bị khốn đốn và tha hóa sau này ai cũng đã thấy. Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo
và Dân tộc đứng đầu là Huỳnh công Minh, Trương bá Cần, Phan khắc Từ, Thiện Cẩm…là
một ổ nội tuyến, nắm vai trò chính ủy để thao túng giáo hội.
Cũng cần nhắc lại ở đây, vì đức tổng Bình muốn hợp tác
chân thành với chính quyền để xây dựng đất nước, ngài đã thành lập một ban cố vấn
gồm :
-Cha Trần Thái Hiệp, Giám đốc Đại chủng viện
-Cha Chân Tín, DCCT
-Cha Nguyễn Huy Lịch, Dòng Đa Minh
-Cha Huỳnh công Minh, UBĐKCG, chánh xứ nhà thờ Đức Bà, Tổng
đại diện Giáo phận Saigon, Phó giám đốc ĐCV.
-Cha Phan khắc Từ, UBĐKCG
-Ông Nguyễn đỉnh Đầu, nhân sĩ
-Cha Mai xuân Hậu, chánh xứ Hà Đông Xóm Mới
Ban cố vấn họp mỗi thứ hai hàng tuần…..Trong tập hồi ký của
Lm Mai xuân Hậu, thành viên ban cố vấn,
ngài có nhắc lại chuyện xẩy ra trong một buổi họp có Huỳnh công Minh:
« Cũng vẫn là buổi sinh hoạt thường lệ có đầy đú Ban Cố Vấn và có cả Đức
Tổng GM Bình, Đức cha Phụ Tá Nẫm nữa. Vừa ngồi vào ghế thì Đức Tổng Bình nhìn
thẳng vào tôi và nói: « Tôi được tin báo, trưa thứ bảy vừa rồi cha được
công an thành đến tận nhà làm việc có phải không ? Cha có thể cho chúng
tôi biết qua sự việc được không ? »
« Tôi bình tĩnh thuật lại : Khoảng 1 giờ trưa thứ bảy, con
đang ngủ trưa thì có tiếng đập cửa phòng rất lớn, con dậy và mở cửa thì thấy
anh Tư Châu, đứng đầu công an vùng Gia Định, cơ quan đóng ở Ngô Tùng Châu, mà
con đã được hân hạnh tiếp xúc nhiều lần. Anh bước vào phòng con, có cận vệ cắp
súng đứng gác cửa phòng. Con chào và hỏi có chuyện gì anh Tư đến lúc giờ ngủ
trưa thế ? Anh nói ngay : Trong tuần tĩnh tâm ở Thái Mỹ, Củ Chi, linh
mục đã nói « Bán đứng » là thế nào ?
« Con mời anh ấy ngồi và rót nước mời uống và con bắt đầu trả lời :
Anh Tư không đi tĩnh tâm với chúng tôi nên chắc có ‘angten’ tố cáo nên anh Tư cần
nghe tôi trả lời. Đúng, tôi có nói : ‘Đừng bán đứng chúng tôi trong giờ ngủ
trưa ở Thái Mỹ….’ Con nói ôn tồn nhưng không kém mạnh mẽ. Ở đây, thưa Đức Tổng,
con chỉ tóm gọn mấy điểm chính.
« Tuần tĩnh tâm ở Thái Mỹ này là tuần tĩnh tâm đầu tiên của giáo phận
trong năm đầu của đất nước Việt Nam Xã Hội Thống Nhất. Chúng tôi cảm ơn chính
phủ cách mạng đã cho chúng tôi một tuần tĩnh tâm. Nhưng tôi không hoàn toàn đồng
ý về mục đích của tuần tĩnh tâm mà một số linh mục ‘yêu nước’ đã nhiều lần
tuyên bố: Đúng ra tất cả các linh mục đều phải tập trung đi cải tạo, nhưng nay
chúng tôi (linh mục yêu nước) đã bảo lãnh với cách mạng là dùng tuần tĩnh tâm
này để cải tạo, nên việc đạo đức chỉ chiếm một số giờ rất nhỏ, suốt ngày toàn
là lao động, cuốc đất, trồng trúc, chặt trúc và học tập chính trị. Có các cán bộ
cách mạng thường xuyên và liên tục thuyết trình về Cac-Mác, Lê Nin và Bác Hồ.
« Con nói rõ với anh Tư : Nếu sang năm còn tổ chức tĩnh tâm như
loại này, con sẽ không đi. Trong thánh lễ không cần lễ phục mà chỉ cần quần xà
lỏn áo thung rồi đeo giây stola là đủ. Không được nhắc cầu nguyện cho các linh
mục tuyên úy đang được cải tạo vì các ngài là tội phạm của chế độ, mà cầu nguyện
cho tội phạm là phản động.
« Soạn thảo một sứ điệp của các linh mục dự tĩnh tâm cho toàn thể giáo
dân của cả giáo phận. Con phản đối sứ điệp này, vi từ xưa tới nay, biết bao tuần
tĩnh tâm mà đâu có sứ điệp gì nên không cần soạn sứ điệp gì cả. Nhưng sứ điệp vẫn
được soạn thào, và lúc soạn thảo lại chọn giờ ngủ trưa trong dãy nhà tôn thấp
lè tè, các cha già kể cả con, phải lấy khăn mặt xấp nước đậy lên mặt cho đỡ
nóng. Thế mà ban soạn thảo cứ to tiếng, chọn câu, chọn chữ, dùng từ…làm con tức
mình nói thành tiếng :‘các ngài đang bán đứng chúng tôi’. Có tiếng cười
bên cạnh giường, con mở mắt ra nhìn, con thấy ai cười (con không cần nói ai cười).
Và rồi sau tuần tĩnh tâm vừa về đến nhà xứ chiều thứ sáu thì trưa thứ bảy, anh
Tư đến thăm sức khỏe con.
« Con giải thích ý nghĩa « bán đứng » cho
anh Tư nghe: Người đời vẫn nể các linh mục vì các ngài học nhiều, biết tiếng
latinh, tiếng Pháp, tiếng Anh mà tờ sứ điệp này lại hành văn không đúng, dùng
chữ sai…thế chẳng phải là « bán đứng » chúng tôi hay sao ?
« Anh Tư biết tôi dạy văn gần hai chục năm. Ca tụng
chế độ không khéo và không tế nhị thay vì động viên giáo dân lại bị phản tác dụng,
như thế không là « bán đứng » hay sao ? Cách mạng cũng không cần
những tuyên truyền hạ cấp, thô thiển rẻ tiền… như vậy cũng là « bán đứng »
chứ còn gì ?
« Và con đề nghị với anh Tư : Linh mục chúng
tôi, Giáo Hội chúng tôi ước muốn mỗi năm có một tuần tĩnh tâm truyền thống tại
Đại Chủng Viện để chúng tôi hoàn toàn ra trước mặt Chúa chúng tôi để tĩnh tâm.
« Đức Tổng góp ý :May mà là cha, nếu là một cha
khác chắc đã bị bắt đi cải tạo. Tôi tiếp lời ngài : Thưa đức Tổng, nếu những
báo cáo « angten » như thế này còn xẩy ra thì hàng ngũ linh mục nói
riêng và toàn dân nói chung sẽ bị phân hóa, không còn ai tin vào ai nữa !
« Một cha, con không cần dấu tên, cha Huỳnh công
Minh đã tuyên bố:« Tôi là linh mục,
nhưng cũng là một công dân, là công dân tôi có quyền và có bổn phận tố cáo tất
cả những ai phản động ».
« Con tiếp lời: Cái
mũ phản động hiện nay rất nhiều, rất rộng và rất ác độc, đê tiện, xin đừng chụp
mũ. Phải nghĩ đến Chúa và ngày mai ».(13)
Sau khi bao vây Đức cha Nguyễn văn
Bình, CS bắt đầu trừ khử các nhà dòng, tu viện nam nữ như dòng Chúa Cứu Thế, Đồng
Công, khổ tu Châu Sơn, nhà thờ này, cha xứ nọ từ ngoài Trung vào đến Saigòn rồi
Cần Thơ, đồng bằng Cửu Long. Tất cả đều bị gán ghép những tội mà chẳng bao giờ
họ làm để có cớ tịch thu tài sản, bắt giáo sĩ đi tù. Dòng Châu Sơn, dòng Đồng
Công ở Thủ Đức, một dòng chuyên tu đức cũng bị tố cáo tàng trữ vũ khí và lương
thực để chống phá cách mạng. Thế là nhà dòng bị tịch thu, cha bề trên và các
thày bị bắt bỏ tù cải tạo. Cha xứ nhà thờ Vinh Sơn ở đường Trần quốc Toản cũng
bị tố cáo có súng, có quần lót, nịt vú đàn bà trong nhà để rồi bị bắt tù và chết
không hề ra tòa xét xử. Cha Thi chánh xứ nhà thờ Bắc Hà bị đập bể đầu chết
trong đêm tối. Cha Hoàng Quỳnh thì tên Thúy, cận thần của ngài mấy chục năm trời,
sau 1975 mới lộ ra là CS nằm vùng mang cấp bậc đại tá nói là chẳng cần giết ông
làm chi, cứ nhốt ít tháng rồi ông sẽ chết thôi. Quả vậy chúng nhốt ngài ở
building Ngã Ba Ông Tạ thì hơn tháng sau ngài qua đời.
Thời gian này mọi linh mục, giáo sĩ,
nữ tu, tất cả đều sợ hãi, có người không dám nhận mình là linh mục. Không ai bảo
ai không ông cha hay bà sơ nào mặc áo dòng đi ngoài đường như trước kia. Các
linh mục ở mỗi địa phận không được phép họp mặt cấm phòng theo định kỳ như dưới
thời VNCH. Mất liên lạc, xa giám mục bản quyền thì vấn đề đạo đức cá nhân và
sinh hoạt xứ đạo sẽ bị sao lãng và bê bối thôi.
Đối với giáo dân, các đoàn thể, hội
cầu nguyện… cũng không được hoạt động. Việc tụ họp hai ba gia đình lại với nhau
để đọc kinh cũng bị cấm. Ở nhà thờ trong giờ kinh lễ, ông cha cũng phải giữ mồm
giữ miệng nơi tòa giảng kẻo bị gán cho cái tội chống phá cách mạng. Vùng kinh tế
mới thì hoàn toàn không nhà thờ, không linh mục. Tất cả các linh mục tuyên úy
QLVNCH đều bị tập trung tù cải tạo không biết ngày về. Ở trong tù cũng không được phép làm lễ, không được đeo ảnh
Thánh Giá. Khi được thả về không được thi hành thiên chức linh mục, làm mục vụ, không được sống ở nhà xứ, không
được coi xứ đạo mà phải về sống với gia đình tản mát trong dân chúng và phải
trình diện công an phường khóm mỗi tuần mỗi tháng.
Ngăn cách giám mục với linh mục,
linh mục với giáo dân và giáo dân cách giáo dân vẫn là chủ đích của cộng sản để
làm tê liệt hầu dễ bề triệt tiêu tôn giáo.
Sau khi đã khủng bố đầu não Giáo Hội,
cộng sản đưa ra đường lối cho GH theo. Câu nói «Tốt Đời Đẹp Đạo» là châm ngôn để
thi hành. Nhưng đó chỉ là ngụy biện có mục đính phủ dụ và tuyên truyền. Tốt Đời
theo chủ nghĩa cs chưa chắc đã Đep Đạo, hoặc ngược lại Đẹp Đạo chưa chắc đã làm
vừa lòng đảng cs. Linh mục giáo sư Thanh Lãng, vì hăng say muốn cải đổi giáo hội
và đất nước đã hùa theo đà cấp tiến làm những điều quá lố để rồi khi chết đã hối hận viết thư ăn năn, xin lỗi
Đức Khâm xứ Tòa thánh. Linh mục Chân Tín, cựu linh mục Nguyễn ngọc Lan một thời
đi với cộng sản, bây giờ vỡ mộng. Bài giảng xám hối của linh mục Chân Tín tại
nhà thờ DCCT đường Kỳ Đồng là phát súng lệnh và cũng là cái cớ để cha Chân Tín
và Nguyễn ngọc Lan bị lưu đầy và theo dõi.
Song song với thời gian đánh phá tôn giáo là thời gian
đánh tư sản mại bản, lùa người dân thành phố đi kinh tế mới, đổi tiền, bần cùng
hóa nhân dân, biến dân thành phố thành nghèo đói phải bán đồ đạc trong nhà từ
cái chổi, cái bát, đôi đũa đến cái giường…để sống qua ngày. Thanh niên phải đi
thanh niên xung phong, làm nghĩa vụ quân sự tại chiến trường Cao Mên. Miền Nam
trở thành tiêu điều xơ xác, bị quốc tế phản đối, Hoa Kỳ cấm vận. Đây quả là thời
gian đen tối nhất, không một gia đình nào ở miền Nam không có mối lo, chồng đi
tù cải tạo không biết ngày về, vợ con ở nhà đói khổ lại bị kỳ thị, khủng bố
tinh thần, công an phường khóm ngày đêm theo dõi. Dân chúng miền Nam, ai cũng
lo tìm đường vượt biển, bất chấp hiểm nguy miễn sao thoát ách độc tài cộng sản.
Chưa một cuộc vượt biển tỵ nạn chính trị nào hiểm nguy và vĩ đại như cuộc vượt
biển trốn cộng sản của dân miền Nam Việt Nam đã làm rúng động thế giới, cải hóa
tư duy của những kẻ đã một thời tung hô chủ nghĩa cộng sản, ủng hộ cộng sản Bắc
Việt, MTGPMNVN hết mình như Bertrand Russell, Jean Paul Sartre và Raymond
Aron…Những tên phản chiến sáng mắt. Thế giới sáng mắt. Nhưng cộng sản Việt Nam
vẫn nhất định không chịu mở mắt, phải đợi đến khi chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn
xụp đổ ở Liên Sô và Đông Âu, bức tường Đông Tây Bá Linh xụp đổ vào năm 1989.
Nguyễn Tiến Cảnh
Fleming Island, Florida
April 4, 2016
NGUYỄN TIẾN CẢNH - NHỮNG TỒN TÍCH CỦA CỘNG SẢN TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO / THỜI KỲ CỞI TRÓI, HÉ MỞ BỨC MÀN TRE
Thời kỳ cởi trói, hé mở bức màn tre
Dân chúng miền Nam Việt Nam thở phào
nhẹ nhõm, ước mong cộng sản Việt Nam cũng xụp đổ như ở Đông Âu. Nhưng cho đến
giờ…cộng sản vẫn còn đó. Tuy nhiên cộng sản không thế bơi ngược giòng nước, đưa
tay chặn bánh xe lịch sử. Chẳng đặng đừng, cộng sản Việt Nam phải cởi trói.
Cởi trói nhưng cốt lõi vẫn là cộng sản
độc tài toàn trị, vẫn lăm le cái còng số 8. Cảnh bình mới rượu cũ -hiện tượng
«Vũ như Cẩn»- vẫn là một thực tế từ hơn 40 năm nay. Hiến pháp thì cho tự do tôn
giáo, nhưng pháp lệnh này qui định nọ vẫn trói chặt tôn giáo trong chuồng. Mục
đích của họ là giết chết tôn giáo, nếu không được thì bôi bẩn, làm cho tê liệt.
Họ đã dùng tôn giáo phá tôn giáo, mượn chính tay giáo sĩ, giáo dân, linh mục, cả
giám mục để làm suy yếu Giáo Hội. Dùng bàn tay nhung đối với những ai chịu nghe
theo chúng, bàn tay sắt đối với những ai cứng đầu. Chiến thuật củ cà rốt và cái
gậy đã được áp dụng triệt để. Ai chấp nhận củ cà rốt thì được dễ dãi, ưu đãi.
Ai cương quyết theo đường lối của Chúa thì phải chấp nhận cái gậy, bị làm khó dễ,
bị hành hạ. Chiến thuật này có thời đã thành công bởi lẽ con người «tinh thần
thì nhẹ nhõm mà thân xác thì nặng nề» [14]. Chả vậy mà đã có
một thời cả Giám mục, linh mục, dì phước lũ lượt xuất ngoại quyên tiền để làm
nhà thờ, tu bổ nhà xứ, trung tâm phát triển đạo, thậm chí sau này có người nói
họ «Xây thì ít mà Cất thì nhiều!». Quyên góp tiền để đào giếng cho giáo dân có
nước trong sạch uống thì chẳng thấy giếng đâu, chỉ thấy tòa Giám Mục thì nguy
nga ‘hoành tráng’, xe của giám mục thì lộng lẫy hơn cả xe của tỉnh ủy[15].
Quyên tiền về giúp đỡ các cha già hưu dưỡng, các cha hưu không hề nhìn thấy măt
đồng dollar thế nào thì đùng một cái được tin tiền đó đem đầu tư, kinh doanh để
sinh lời đã bị thua lỗ mất hết rồi! (16). Mất hay nó chạy vào túi ai thì chỉ có
Chúa biết. Các cha già đang hưu ở một trung tâm kia thì bị đuổi đi để làm cư xá
cho nữ sinh viên. Nếu các cha già không quyết liệt phản đối thì nhà hưu dưỡng
đã bị chiếm để biến thành nơi thương mại rồi (17). Nên nhớ tiền xin được ở hải
ngoại đem về thì cũng phải chia chác đấy. Biết bao nhiêu chuyện hỉ nộ ái ố đã xẩy
ra dòng dã bao nhiêu năm trời.
Cộng sản rất tâm lý, họ hiểu biết
nhu cầu của Giáo hội là cần linh mục, cần nhà thờ, cơ sở truyền đạo, tài liệu
truyền giáo …nên việc đầu tiên là họ triệt hạ, ngăn cấm những thứ đó khiến cho
nhu cầu càng trở nên cấp bách. Chúng ta thấy bước đầu tiên là họ đóng cửa các
chủng viện, dòng tu, giới hạn chủng sinh, tu sinh bằng những điều kiện khó khăn
ngược với qui luật của Giáo Hội. Theo luật cung cầu, khi nhu cầu càng cao thì
giá cả lại càng đắt và dễ bề hoạt động. Để tỏ vẻ là dễ dãi, cởi mở, chính quyền
lập ra cơ quan làm trung gian. Muốn xin điều gì thì phải qua trung gian là Ủy
ban Công Giáo Yêu Nước sau này đổi tên là Công Giáo và Dân tộc. Cơ chế Xin-Cho
bắt đầu xuất hiện.
Ai nói nhà nước không cho tự do tôn
giáo? Có tự do chứ, nhưng phải xin để được cứu xét và phải có điều kiện. Nhưng
đơn xin thì chẳng bao giờ thấy hồi đáp, nếu có thì lại bị giới hạn. Chẳng hạn
HĐGMVN xin phép ra một tập san thuần túy tôn giáo từ năm 1992 mãi đến năm 2001,
bộ văn hóa thông tin mới cho HĐGM tạm thời xuất bản một bản tin nhưng với điều
kiện phải « phù hợp với lợi ích của đất nước và Giáo Hội ». Cũng lại kiểu Tốt Đời
Đẹp Đạo. Ngoài ra bản tin lại chỉ được ra hai tháng một lấn và mối lần chỉ có
100 tập để phân phát cho 25 giáo phận với hơn 7 triệu giáo dân. Ai đọc ai đừng?
Cơ cấu Xin-Cho quả là một con sông cách trở có giòng nước xoáy.
Ủy ban Công Giáo Yêu Nước tức Công
Giáo & Dân Tộc gồm Huỳnh công Minh, Trương bá Cần, Phan khắc Từ, Thiện Cẩm
thì một mặt đóng vai trung gian giữa Giáo Hội và nhà nước một mặt là người của
đảng vẫn trung thành với bác và đảng, đã không thành công ở miền Bắc, nhưng đã
thành công ở miền Nam. Chính cái Ủy ban này đã lũng loạn Giáo Hội miền Nam.
Giám mục, linh mục, cha xứ nào -vì nhu cầu- muốn gì phải qua nó, khi năn nỉ,
khi hối lộ. Đảng và nhà nước muốn Giáo Hội phải đi qua cái ủy ban môi giới giáo
gian đó, một ổ chuột linh mục có vợ có con…mà cả HY, GM không ai dám đụng đến
thì hỏi còn đâu là Giáo Hội tinh tuyền. Cộng sản đã phá nát Giáo Hội mà có người
vẫn dửng dưng coi như không biết, viện đủ mọi lý cớ để tự an ủi cho một lương
tâm co dãn, một thỏa hiệp với kẻ dữ, một quỵ lụy đắng cay hèn nhát và bỉ ổi. Cộng
sản đã tạo ra một xã hội cửa quyền, khiến Giáo Hội phải phụ thuộc vào nó, thành
một mạng lưới đồng nhất chằng chịt từ trên xuống dưới ăn khớp với nhau theo đường
lối của đảng. Những gì đụng tới đảng thì tuyệt đối không chấp nhận. Đảng và nhà
nước cứ việc uyển chuyển xoay vần bóp nắn. Tha hóa là thế đó. Huỳnh công Minh,
nắm trọn những chức vụ quan trong của tổng giáo phận, làm « chính ủy »
thì có cái gì có thể thoát khỏi con mắt cú vọ của ông. Tuyển sinh linh mục thì
đã phải sàng lọc từ địa phương, khi đến đại chủng viện thì lại có Huỳnh công
Minh, kiểm soát và nắm tất cả chương trinh huấn luyện, rồi trước khi phong chức
linh mục lại phải qua một thời kỳ cam go nữa. Được làm linh mục hay không là ở
lúc này. Chuyện chạy vàng, chạy tiền đã xẩy ra, ai cũng biết cả. Một linh mục kể
lại khi « mặc cả » để được chịu chức linh mục, cán bộ nhà nước đã nói
‘mai mốt làm linh mục rồi thiếu gì tiền !
Không tiền không vàng vẫn được đỗ cụ thì ai cũng có thể đoán biết tại
sao.
Giáo Hội đã bị tha hóa, lũng loạn từ
trên xuống dưới. Cả cái ủy ban Công Giáo và Dân Tộc, gọi là liên lạc giữa nhà
nước và Giáo Hội cũng là cái tổ chuồn chuồn sinh ra nhiều tội ác với người, với Giáo Hội và với Chúa.
Là con người có lúc tâm hồn lắng đọng cũng phải biết nghĩ đến điều phải trái.
Cha Phạm hân Quynh kể chuyện mấy ông linh mục Đoàn Kết trong Saigon năm 2002 ra
Đông Xuyên gặp cha, gồm cả bộ ba TBC, TC và PKT. Mới đầu TBC tấn công ngay :
-Cha Quynh à, tôi gặp
cha để trách cha. Tôi coi cha như anh cả. Thấy tôi sai sao cha không cản tôi…để
bây giờ không lùi được nữa…mắc bẫy rồi.
-Làm sao tôi cản
các cha được. Đường quang không đi lại quàng vào đường rậm. Mắc bẫy là đúng rồi.
Bây giờ chỉ còn cách….
-Mấy cha nháo nhác
hỏi, cách gì ?
-Các cha có can đảm
thừa nhận hết tội lỗi với Giáo Hội và từ bỏ vướng mắc chuyện vợ con
không ?
Linh mục PKT lắc đầu :
-Không đủ can đảm.
Không lùi được nữa….Có muốn lùi cũng không lùi được cha ơi !
Cha Quynh bảo :
-Phản lại Chúa thì
khổ lắm. (18)
Từ ngày cs chiếm Saigon đến nay đã để
lại biết bao tồn tích trong Giáo Hội về đủ thứ Tình-Tiền-DanhVọng với những
tham sân si chằng chịt lộ liễu cũng như âm thầm lén lút ?
Giáo Hội miền Bắc trứơc 1975 đã chọn
«quí hồ tinh bất quí hồ đa», linh mục chui, chấp nhận đóng cửa cả tiểu chủng viện
lẫn đại chủng viện nhất định không để CS kiểm soát hoạch định chương trình huấn
luyện linh mục. Trong suốt học trình 7 năm huấn luyện để thành linh mục dưới sự
kiểm soát của CS, ai có thể bảo đảm đảng không gài người của họ vào hàng ngũ
linh mục rồi giám mục? Các tôn giáo khác đã bị như vậy thì công giáo cũng không là ngoại lệ. Đây là một
tồn tích rất nguy hiểm mà cộng sản đã để lại trong Giáo Hội. Làm sao để tẩy rửa
cho sạch ?
Cộng sản có đủ mọi mánh khóe để gài
người. Trước tiên còn vì công tác mục vụ, nhu cầu đạo nên cần phải giao thiệp
ngoại giao, liên lạc, quà cáp biếu xén làm thân với chính quyền, dần dà rồi có
đi có lại nhậu nhẹt với nhau. Tôi đã thấy một linh mục trước kia rất đạo đức vậy
mà sau này nhậu nhẹt say sưa bê bết đến độ làm mất cả thể diện và nhân cách. Hỏi
tai sao như vậy thì được trả lời vì phải ngoại giao với chính quyền nên chén
anh chén tôi mới ra nông nỗi. Rượu vào thì cái gì xẩy ra ai mà làm chủ được
mình. Tình và Tiền là hai thứ đã từng làm nhiều người điêu đứng. Nạn nhân một
khi đã bị thuần hóa thì còn đâu là lý tưởng mà chỉ làm việc theo lệnh chủ. Tại
sao một địa phận trống ngôi giám mục cả mấy chục năm mà Giáo Hội không làm sao
giải quyết được? Bởi vì nhà nước không đồng ý vị giám mục do Giáo Hội đề nghị.
Chỉ khi nào Giáo Hội đề nghị người mà họ ưng ý hay Giáo Hội chấp nhận người họ
đề cử thì tòa đó mới được giải quyết. Lúc đó có thể vị giám mục đó có vấn đề đấy
?
Cái di sản đó không biết bao giờ mới
phai nhạt đi được nơi Giáo hội. Nó đã có, đang có và vẫn còn. Tai nạn này không
chỉ xẩy ra ở Việt Nam mà ở tất cả các nước cộng sản. Một Ba Lan với tổng giám mục
Stalislaw Wielgus đã phải từ chức ngay hôm nhận chức TGM Vaxava ngày 8-1-2007
là một điển hình.Tôi biết một linh mục có tiếng là thiên cộng từ thời còn là
sinh viên du học ngoại quốc. Sau 1975 ông lang thang ở ngoại quốc, vậy mà đùng
một cái thấy ông ở Việt Nam giữ nhiều nhiệm vụ quan trọng trong khi nhiều linh
mục du học khác xin về VN phục vụ mà không được. Thế rồi sau đó ông trở thành
Giám mục. Biết đâu có ngày ông trở thành TGM? Nhìn quả biết cây. Và chắc chỉ có
đảng và nhà nước là biết rõ nhất.
Có lẽ nay là lúc HĐGMVN cũng nên
theo gương các Giáo Hội Đông Âu hậu cộng sản, lấy công tâm, theo đúng luật Giáo
Hội và lòng dân để sắp đặt các vị lãnh đạo vào vị trí thích hợp. Không thể vì
áp lực hay thiên kiến, bè phái mà thuyên chuyển hay đặt để. Nếu cứ hành động
như vây theo ý nhà nước thì một ngày kia GHVN sẽ được dẫn dắt bới các cán bộ
nhà nước. Giáo Hội trở thành giáo hội nhà nước / quốc doanh lúc nào mà không
hay.
Đó phải chăng là tự do tôn giáo mà đảng
ban cho? Khi nói là cởi trói hay cởi mở thì đừng nghĩ là cởi mở về mọi phương
diện, ngay cả mặt kinh tế gọi là kinh tế tự do/thị trường mà vẫn còn kèm theo
hàng chữ «theo định hướng xã hội chủ
nghĩa». Đi ra ngoài đường lối của đảng hay có đôi chút đụng vào huyết mạch
của đảng thì tuyệt nhiên không được. Vì vậy khi nói truyện với người cộng sản
thì điều gì cũng được cả, nhưng thực tế không như lời họ nói. Cứ nhìn những việc
trước mắt gần đây nhất như vụ Tòa Khâm xứ, Thái Hà và những vụ dân oan khiếu kiện
bị mất đất mất nhà thì đủ biết. Người cộng sản có bao giờ nhân nhượng ai đâu.
Sống với một người không biết điều đã là khó, nói chi phải
đối thoại với một chính quyền độc tài toàn trị chỉ chấp nhận những điều do họ
đưa ra mà thôi.
Nguyễn Tiến Cảnh
Fleming Island, Florida
April 4, 2016
NGUYỄN TIẾN CẢNH - NHỮNG TỒN TÍCH CỦA CỘNG SẢN TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO / ĐÔI LỜI KẾT
ĐÔI LỜI KẾT
Người viết vẫn còn nhớ khi còn ở
trong tù cải tạo, mỗi khi muốn phát biểu ý kiến thì phải xác nhận lập trường của
mình trước: « Tôi xin đứng về phía nhân
dân và nhà nước… » Điều đó có
nghĩa là anh muốn nói gì thì nói, đả kích hay ca tụng, nhưng luôn luôn phải đứng
trên lập trường của nhân dân. Mà nhân dân tức là Đảng và Nhà Nước. Đi ngược lại
cái cốt lõi, huyết mạch đó là không được. Mác đã nói: « Tôn giáo là thuốc phiện
mê hoặc con người », là « kẻ thù của nhân dân » thì phải hiểu là tôn giáo không
có chỗ đứng nơi đảng cộng sản. Cứ nhìn việc làm của họ thì hiểu ý họ. Đừng nghe
những gì cộng sản nói. Đừng hy vọng đối thoại với cộng sản để có thể cải hóa họ.
Họ thả chỗ này, xiết chỗ kia. Đương kim TT Nga Vladimir Putin nói :
« Kẻ nào tin lời cộng sản nói là
không có cái đầu ; kẻ nào làm theo lời cộng sản là không có trái tim. »
Cựu tổng thống Nga Sô Yetsin, một đảng viện cộng sản nòng cốt kỳ cựu đã tuyên bố
: « Cộng sản không thể thay đổi được, chỉ
có phế bỏ nó đi mà thôi ».
Vậy thì muốn sống với cộng sản, hòa
giải với cộng sản để giữ đạo và hành đạo, người Kitô hữu chỉ có thể dùng trí
thông minh, sự khôn ngoan và niềm tin cương quyết của mình mà quyết định, như
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói: «Hợp
tác nhưng đề kháng ».
Đồng thời chúng ta cũng phải cầu
nguyện như một giám mục Việt Nam đã nói : Đứng trên quan điểm loài người mà xét
thì thật đáng thất vọng. Chúng ta hãy cầu nguyện và ước gì lời nguyện cầu của
chúng ta được thể hiện bằng những hành động cụ thể [19].
Bổn phận của Giáo Hội, của mục tử và
giáo dân là rao truyền Tin Mừng, cải tạo xã hội để giúp con người biết thương
yêu nhau như Chúa đã dạy. Muốn vậy thì công bằng và công lý phải được thực hiện.
Để xã hội có công bằng và công lý thì chính quyền cần phải có luật pháp phân minh
và luật pháp phải được thi hành một cách công bằng.
Xã hội nào vẫn còn cảnh người bóc lột
người, kẻ có quyền hà hiếp người yếu thế thì ở đó vẫn còn cảnh bất công, không
có công lý và công bằng.
Tôn giáo cần phải phối hợp với chính
quyền, giúp chính quyền, thúc đẩy chính quyền bằng mọi cách để thực thi công bằng
và công lý để biến cải xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, nghĩa là khi chính quyền
đi ngược lại lòng dân, làm điều thất đức, gây cảnh bất công trong xã hội thì
tôn giáo / người Kitô hữu có bổn phận lương tâm phải lên tiếng yểm trợ những kẻ
cô thế bị hà hiếp (20], bởi lẽ loan báo Tin Mừng không phải là
chỉ phục vụ phần hồn mà bỏ quên phần xác, cũng không phải chỉ quan tâm đến ơn cứu
độ cá nhân mà bỏ qua những thực tại xã hội trước mắt [21].
Đó mới chính là sống Phúc Âm giữa
lòng dân tộc một cách thực tế và cần thiết, không lý thuyết viển vông. Đạo và Đời
không thể tách lìa nhau ở điểm này. « Sống chung » với cộng sản không
có nghĩa là « chung sống », hòa đồng sống như người cs gian trá và
mưu sỉ. Thiện không thể chung sống với ác. Người ta sống không phải bằng cơm gạo,…
nhưng bằng lời Thiên Chúa (22). Muốn xã hội và Giáo Hội Việt Nam tốt đẹp, thoát
khỏi những tàn tích xấu do cs đã và đang hoành hành, người công giáo, đặc biệt
giới lãnh đạo, HĐGM, tất cả mọi người đều phải sống lời Chúa bằng hành động thực
sự, cương quyết nói lên sự thật, điều sai trái để sửa chữa dù có bị áp lực, đe
dọa, cực hình, dụ dỗ đầy mưu mô thâm độc (23).
Nói đến sự thật, chúng ta cần đặc biệt
chú ý và cẩn thận. Ở Việt Nam người ta sợ
không muốn nhắc đến tên những vị tử vì đạo, đã dám tranh dấu vì niềm tin để bảo
vệ Giáo Hội mà bị hành hạ, chịu chết trong ngục tù hoặc một cách mờ ám. Họ giữ
yên lặng, không muốn nhắc đến tên TGM Nguyễn kim Điền, HY Trịnh như Khuê, cha
chính Nguyễn văn Vinh v.v. nại cớ vấn đề tế nhị hay nhậy cảm. Tại sao ? Vì
nhắc đến tên những vị đó là đụng vào cái ác của người cs như dụng vào tên húy vậy.
HY Bonizac bình luận: con cái của dối trá đã thu nhặt từng mảnh vụn, yếu tố nhỏ
của « bức màn », lợi dụng nó để ẩn náu, làm thành một lớp sương mù
bao phủ sự thật về cả cá nhân lẫn tổ chức. Nhờ bức màn đó người ta reo mầm mống
chia rẽ và nghi kỵ. Người công giáo chúng ta cần sự thật, vì Chúa là: « Đường
và là Sự Thật » . Nếu ta tránh sự thật thì còn đâu là con Chúa. Trong cải
đỗi xã hội, giới trẻ phải là ưu tiên. Họ cần được giúp đỡ, hướng dẫn để nhận biết
ra sự thật của lịch sử và luôn luôn ghi nhớ trong tâm khảm tên tuổi và tiểu sử của những vị đã vì
Niềm Tin, vì Chúa, vì Con Người mà hy sinh mạng sống. Thật vô lý lấy tên vị
thánh tử đạo đặt tên cho một nhà thờ, xứ đạo hay một cơ sở mà lại không dám nhắc
đến tên những vị cũng là tử vì đạo. Phải cương quyết thoát khỏi cái vòng kim cô
đó mà cộng sản, con cái của dối trá, gian manh đã đặt vào cổ chúng ta, mà nói
cho mọi người, nhất là thế hệ trẻ sự thật của lịch sử.
Đừng để tình trạng ngăn cách con người
với con người, và con người với Thiên Chúa tiếp tục xẩy ra.
Nguyễn Tiến Cảnh
Fleming Island, Florida
April 4, 2016
[1] .Việt Nam, tuy đã mở
cửa phần nào về kinh tế và tôn giáo, bức màn sắt không còn, nhưng cốt lõi vẫn
còn cộng sản. Tuyên bố cho Tự Do Dân Chủ nhưng vẫn áp dụng độc tài toàn trị. Do
đó ta có thể coi VN vùa là nước cộng sản vừa là nước hậu cộng sản. Vì vậy việc
tìm kiếm phương cách xây dựng một Giáo Hội đích thực quả là khó khăn, đòi hỏi
những nhận xét thật sâu sắc, khôn ngoan và hành động thật cương quyết.
[2] .Đức HY Stepinac là một TGM có tinh thần
quốc gia mãnh liệt, chống cả Phat Xít và CS một cách quyết liệt, không nhân
nhượng. Ngài bị CS Hung bắt tù khổ sai 15 năm. CS từ xưa và cả ngay bây giờ vẫn
cố né tránh không nhắc đến tên ngài. Chẳng lạ gì ở Việt Nam, người ta cũng rất
sợ, cố gắng né tránh khỏi phải nhắc tới một Đức Cha Nguyễn kim Điền, một HY
Trịnh như Khuê, một cha chính Nguyễn văn Vinh của Hanội, một thày giảng Quế ở
xứ Đoài, thày giảng Lung ở Ngọc Đồng, Hưng Yên v.v….
(3]
Người Việt Nam tỵ nạn chính trị CS ở hải ngoại có dựng một bia đá để ghi nhớ
những thuyền nhân đã chết trên đường vượt biên ở Nam Dương, nhưng đã bị nhà cầm
quyền CSVN dùng ngoại giao áp lực chính phủ Nam Dương phải phá bỏ đài tưởng
niệm đó trong khi họ vẫn kêu gọi xóa bỏ hận thù để hòa giải dân tộc xây dựng
đất nước.
[4] Người Saigon, Internet
[5] Phúc âm Matthew 4: 10
(6) Sách Pham Hân
Quynh : Con người-Sự kiện-Giai thoại, 2012. tr.93-95
(7) Phaolo Lê đức Trọng: Chứng Từ của một Giám
Mục – 2009
(8)
Phát biểu của TGM NGÔ QUANG KIỆT tại cuộc họp UBND thành phố Hanoi ngày
20-9 2008: Trước hết ông Chủ Tịch có nói
rằng UBND thành phố đã tạo rất là nhiều điều kiện cho GHCG trong những năm qua,
nhất là dịp lễ Noel…Chúng ta phải công nhận trong những năm gần đây có nhiều
điều kiện.Tuy nhiên khi như thế, khi nói tạo điều kiện, vẫn còn mang cái tâm lý
Xin-Cho, tức là cái này là ân huệ tôi ban cho anh đấy. Nhưng cái tôn giáo là
cái quyền tự nhiện con người được hưởng. Và nhà nước vì dân, cho dân phải có
rách nhiệm tạo cái điều kiện đó cho người dân
chứ không phải cái ân huệ chúng tôi xin. Không có. Tự do tôn giáo là
quyền chứ không phải cái ân huệ Xin-Cho…..
[9] PHAM HÂN QUYNH:Con người-Sự kiện-Giai thoại-
tr. 93-95): Đức Cha Trịnh như Khuê và cha Quynh, thư ký, đã gặp Thủ Tướng Phạm
văn Đồng và Thủ Tướng đề nghị lập Ủy Ban Liên Lạc giữa nhà nước và Giáo Hội.
Thủ Tướng đã chỉ định Luật sư Nguyễn thành Vĩnh, một người Nam tập kết làm đại
diện cho chính quyền. Đức Cha Khuê không đồng ý, muốn người đai diện phai là
người ngoài công giáo. Cuối cùng, nhà nước tự mình tổ chức thành lập Ủy ban
liên lạc những người công giáo yêu tổ quốc yêu hòa bình, gồm các linh mục Vũ xuân
Kỷ, Nguyễn tất Tiến và hai linh mục tập kết ra Bắc là Hồ thành Biên và Võ thành
Trinh.
[10] Linh mục NGUYỄN HỮU LỄ: Bút ký TÔI PHẢI
SỐNG, trang 19. Đức GM Trịnh như Khuê bị giam lỏng, cô lập trong tòa giám mục
hơn 20 năm. Hàng ngày ngài đi bách bộ đọc kinh trên sân thượng, vết chân ngài
đi nhiều đến nỗi đã tạo thành một đường mòn in hằn trên gạch. Sau 1975 ĐC Khuê
được đi Roma và Pháp. Lần thứ hai đi Roma lãnh chức Hồng Y, khi trở về nước qua
ngả Moscov về tới Hanội thì ngã bệnh và chết một cách mờ ám, mặc dù trước đó
ngài rất khỏe mạnh, không bệnh hoạn.
[11] Tài liệu Nguyễn văn
Lục
[12] Đại Úy Kiều duy Vĩnh kể lại là ông bị giam
tại trại Cổng trời 15 năm. Trong số hơn 60 người theo đạo Thiên Chúa Giáo bị
bắt giam tại đây, từ linh mục đến giáo dân đều bỏ mạng tại đây. Không có ai trở
về. Đặc biệt có cha Nguyễn văn Vinh, người nổi tiếng vì chống đối Đại tứong De
Lattre De Tassigny trong việc xếp chỗ ngồi tại nhà thờ lớn Hanội. Tất cả những
người công giáo trên đều bị kỷ luật đưa vào giam ở hang đá, trong đó rất lạnh,
không ai có thể sống sót sau một tuần lễ (Ký Ức của Kiều duy Vĩnh). Ông Vĩnh
trước khi qua đời đã trở lại đạo công giáo.
(13) Lm Mai Xuân Hậu. Hồi Ký CHÚA GỌI.
tr.68-71.
[14] Phúc Âm Matthew 26: 41.
[15]
HY PĐT kể lại.
(16) Lm
VHT kể lại HY Phạm minh Mẫn đã có lần sang Hoa Kỳ quyên tiền về giúp các cha
hưu dưỡng được gần 1 triệu dollars, nhưng sau này hỏi đến thì nói là bị thất
thoát vì kinh doanh. Kinh doanh đầu tư
hay đã nộp cho ai thì chỉ có Chúa biết.
(17) Nhà hưu dưỡng các linh mục gốc địa phận Hanoi ở Ngã Sáu Chợ Lớn bị Huỳnh
công Minh đòi lấy để xây cư xá cho nữ sinh viên thời Lm Mai xuân Hậu về huu và
làm quản đốc. Nhưng các cha già nhất định không chịu di dời đi chỗ khác.
(18) PHẠM HÂN QUYNH: Con người-Sự kiện-Giai
thoại-2012. Tr. 244
[19] ĐMT. Chính sách đàn áp Kito giáo hiện nay
tại Việt Nam
[20] Phúc âm Luca 10: 29-37
[21] Học Thuyết Xã Hội Công Giáo số 62.
(22) Phúc âm Mathew 4: 4-7).
(23) Thư gửi Giacobe 2:14-26
Subscribe to:
Posts (Atom)