Sunday, April 24, 2016

NGUYỄN TIẾN CẢNH - NHỮNG TỒN TÍCH CỦA CỘNG SẢN TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO / HỘI NGHỊ ZAGREB: VỀ NHỮNG DI HẠI CỦA CỘNG SẢN


Vatican hiện rất quan tâm đến tình trạng của các nước hậu cộng sản và đang tìm cách xây dựng lại một Giáo Hội đích thực của mình. Những tồn tích của chế độ cộng sản còn đọng lại với những ảnh hưởng trầm trọng của nó về mọi mặt cả vật chất lẫn tinh thần, từ văn hóa, giáo dục, tôn giáo, xã hội đến kinh tế, chính trị…đang là những ưu tư không nhỏ của những vị lãnh đạo Giáo Hội tại những nước hậu cộng sản. Ở đây xin chỉ bàn vấn đề tinh thần một cách tổng quát dựa vào những nhận xét của các giám mục Đông Âu được trình bày tại hội nghị ở thủ đô Croatia mới đây, rồi từ đó rút ra một vài nhận xét và bài học cho Giáo Hội Việt Nam [1].

HÔI NGHỊ ZAGREB: Về những di hại của Cộng Sản

“Những vết thương và đổ vỡ do chủ nghĩa cộng sản gây ra hiện vẫn còn tồn tại và đang đầu độc đời sống con người và xã hội nơi những quốc gia đã một thời phải sống sau bức màn sắt”.

Đó là thông điệp của các giám mục Đông Âu đã đưa ra tại cuộc hội thảo chuyên đề ngày 11-2-2009 tại Zagreb, thủ đô Croatia: “Sứ mạng của Giáo Hội ở những nước Trung-Đông-Âu 20 năm sau khi chế độ cộng sản xụp đổ: 1989-2009. Đây là hội nghị chuyên đề thứ ba tiếp theo hai hội nghị trước ở Budapest năm 2004 và ở Prague năm 2007 về cùng một chủ đề như vậy kể từ khi bức tường Bá Linh xụp đổ vào năm 1989. Hồng y TGM Zagreb Josip Bozanic, phó CT HĐGM Âu Châu là chủ tịch hội nghị đã mời 13 giám mục đại diện HĐGM Âu Châu tham dự để đóng góp ý kiến.

Ngày khai mạc Hội Nghị cũng là ngày kỷ niệm HY Alojzije Stepinac được phong Á Thánh. Các đề tài thảo luận cũng đặc biệt chú trọng vào những tàn tích tinh thần do cộng sản để lại và những di sản của các vị tử vì đạo dưới trào cộng sản. Trong bài kết thúc hội nghị, HY Bozinac đã ví “niềm tin của Đức HY Stepinac và của các vị tử vì đạo khác như là kết quả của những khổ đau, nhục nhằn, nhưng can trường và cương quyết không lùi bước trước những cực hình, áp đặt và dụ dỗ đầy mưu mô thâm độc. Ngài bình luận:

- Bức màn sắt là hình ảnh của hận thù, chia rẽ, đổ vỡ, ngăn cách và vị kỷ. Nó được dựng nên bởi con người với chủ trương ngăn cản con người đến với con người. Chủ trương đó còn thâm độc hơn nữa là ngăn cản con người hướng về Thiên Chúa và nhận biết tình thương yêu của Người.

- Khi mà con người - ĐHY nói tiếp - dựng nên bức tường ngăn cách đó thì Thiên Chúa lại gieo hạt giống như những tặng phẩm của đời sống và cho phép nó chết đi….Và rõ ràng là khi người ta cố tình cấm cản sự sống, biến đất lành thành sỏi đá thì chính đất đó lại phát sinh ra hoa trái.

….CHO ĐẾN BÂY GIỜ

Đức Hồng Y báo động: “Mặc dù chúng ta có cảm tưởng là hệ thống cai trị của chủ nghĩa cộng sản đã tan vỡ, ngừng không còn hoạt động với những hình thức như trước kia nữa, nhưng nó đã biến hình đổi dạng thay cách, trong khi môi trường, đất sống là nơi con cháu chúng ta, thế hệ trẻ sinh ra phải hít thở để sống đã bị chúng làm vấy bẩn nhiễm độc rồi”.

Thực vậy, một trong những thắc mắc mà đa số các hội thảo viên lưu ý các giám mục là cho dù chủ nghĩa cộng sản đã xụp đổ, nhưng “cấu trúc của nó vẫn còn tồn tại cả về lập pháp lẫn tư pháp, cả về kinh tế, giáo dục lẫn văn hóa” và đặc biệt “cung cách suy tư của con người, tâm tình đối xữ với nhau, những biến cố, hiện tượng ở quá khứ vẫn âm thầm ẩn náu dưới bức màn che thầm kín gọi là yên lặng”.

Đức hồng y đặt câu hỏi và lưu ý mọi người, nhất là những vị có trách nhiệm trong Giáo hội để tìm hiểu lý do hầu có phương cách sửa chữa.

-Vậy thì làm sao có thể cắt nghĩa được hiện tượng là đã 20 năm sau khi chế độ cộng sản xụp đổ mà người ta vẫn không dám nhìn nhận sự thật, chẳng hạn như ở Croatia người ta vẫn né tránh không dám nói đến ĐHY Stepinac? [2]

Ngài tiếp tục bình luận:

-Những con cái của dối trá đã thu nhặt từng mảnh vụn, yếu tố nhỏ của “Bức Màn”, lợi dụng nó để ẩn náu và làm thành một lớp sương mù bao phủ sự thật về cả cá nhân lẫn cơ quan tổ chức. Nhờ bức màn còn sót lại đó người ta lại reo mầm mống chia rẽ và nghi ngờ.

Đức Hồng Y Bozinac nói tiếp:

-Sự thật là bức màn sắt đó đã hạ xuống rồi, hệ thống cộng sản đã tan vỡ, nhưng những mảnh nhỏ cấu kết nên nó vẫn còn tồn tại lại rất ngoan cố, luôn luôn cổ võ với cùng môt loại dối trá, sai lac, bịa đặt cùng những tương quan liên hệ với quá khứ, không chỉ về mặt chính trị mà cả về giáo dục, khoa học và giảng huấn.

-Hãy coi chừng - Ngài cũng báo động- những loại tuyên truyền quảng bá rùm beng tiền hậu bất nhất ấy về lịch sử, khảo cổ về loài người, nhất là vấn đề đời sống con người, xã hội và gia đình.

Ngài nhắn nhủ:

- “Chúng ta sẽ không bao giờ đồng ý hay cho phép tạo bất cứ một ảnh hưởng chính trị nào liên quan đến những vấn nại trên, bởi vì đó không phải là vấn đề để con người đồng ý hay không mà đó chính là trung tâm điểm của sự thật mà chúng ta là nguồn gốc”.

Một vấn nại nữa mà Đức Hồng Y nhắc tới là vấn đề hiệp thông giữa các Giáo hội, một sự hiệp thông mà những tay gọi là “siêu lý tưởng cố gắng phá vỡ, ngăn cách” những tín hữu ở phương Đông với những tín hữu phương Tây. Ngài kêu gọi những người hiện diện “đừng quên rằng các Giáo Hội trong thế giới tự do luôn luôn yểm trợ chúng ta rất mạnh mẽ và đắc lực, bởi vì nhờ sự hiệp thông, thống nhất và đoàn kết đó mà Giáo hội đã tiến những bước tiến tử đạo vĩ đại”.

Trong một lúc khác Đức Hồng y Bozanic đã lưu ý mọi người: Đây là lúc “phải rao truyền Tin Mừng một cách mới mẻ và can đảm hầu khôi phục lại căn gốc Kitô giáo thực sự của chúng ta, là lúc chúng ta phải trả lời / đáp lại những thách đố và khiêu khích của những người chủ trương thuyết loại suy và nhất là tính độc đoán của những người chủ trương thuyết tương đối”.

Các Giám Mục cũng đã nhắc mọi người nên để ý đến những thách đố và đòi hỏi của việc toàn cầu hóa, đạo đức sinh học, khoa thần kinh học, vấn đề di dân và việc thiết lập một trật tự mới thế giới không kém gì việc bảo vệ tự do lương tâm và những lý tưởng mới, nhất là những lý tưởng liên quan đến đời sống con người và gia đình.

KHÔI PHỤC LẠI QUÁ KHỨ

Văn phòng thư ký của Đức Hồng y chủ tịch hội nghị đã đưa ra một lời kêu gọi: “ Chế độ cộng sản đã qua đi, nhưng tàn dư của nó vẫn tồn tại cùng với những vết thương vẫn ảnh hưởng sâu đậm trên con người và xã hội. Vì vậy cần phải có sự phù trợ giúp đỡ của Thiên Chúa và Giáo Hội để những vết thương đổ vỡ ấy mau được hàn gắn lại”.

Tất cả các nhóm thảo luận đều đặc biệt chú ý đến việc cần thiết phải có Giáo Hội giúp đỡ hầu khơi động lại “Ký Ức Lịch Sử” về những năm tháng dưới chế độ cộng sản để chiến đấu chống lại phong cách và khuynh hướng “cố quên lịch sử”, “NÍN LẶNG DĨ VÃNG”, không muốn nói đến, nhắc lại những việc, những biến cố đã xẩy ra thực, nhất là về những vị tử vì đạo đã hy sinh mạng sống trong ngục tù hay dưới bất cứ hình thức nào khác vì con người, vì Chúa và Giáo Hội.

Một đặc biệt nữa là nhu cầu giới trẻ, họ cần phải được giúp đỡ, hướng dẫn để chúng “nhận biết ra lịch sử đích thực” và “luôn luôn ghi nhớ trong tâm khảm mình những vị đã ‘vì Niềm Tin, vì Chúa, vì Con Người’ mà hy sinh mạng sống”.

Sau cùng các Giám mục đã quyết định tổ chức một Hội Nghị về Lịch Sử để thảo luận về đời sống của Giáo Hội và những việc làm của giáo dân trong thời kỳ cộng sản.

MỘT VÀI NHẬN XÉT GÓP Ý

Qua nội dung của Hội Nghị, chúng ta thấy những nhận xét của Hồng y Bozanic và giáo dân đã một thời sống dưới chế độ cộng sản cũng không khác những gì mà chúng ta thấy ở Việt Nam chúng ta bây giờ. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi vì cộng sản thì ở đâu cũng vậy, nghĩa là độc tài, dối trá, hận thù, chia rẽ và vị kỷ. Và, tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc con người, cần phải tiêu diệt.

Cộng sản dạy con người gian dối. Gian dối với chính mình và với người. Đối với cộng sản, không ai có quyền nghĩ và hành động khác với họ. Nghĩ khác, làm khác là phải bị tiêu giệt. Do đó muốn sống thì phải nói dối, làm gian đúng theo lời bác, đảng và nhà nước dù có trái với ý nghĩ và lương tâm mình.

Cộng sản không nhân nhượng với kẻ thù. Họ quan niệm “giết lầm hơn tha lầm”.  Trong cuôc đấu tố cải cách ruộng đất ở miền Bắc sau 1954 có câu:“Đào tận gốc Tróc tận rễ”, nghĩa là không để sót một tên cường hào ác bá ác ôn nào. Ở miến Nam Việt Nam sau 30-4-75, những người lính VNCH đã chết, có muốn mồ yên mả đẹp cũng không được, đã bị đào xới vất bỏ không thương tiếc. Một cái bia kỷ niệm những người vượt biển chết trên đường tìm tự do ở những nơi xa xôi mãi tận Nam Dương cũng không được phép tồn tại…. [3]

Từ dối trá, hận thù đi đến vị kỷ quả không xa. Con người sống trong xã hội cộng sản chỉ biết có mình, chỉ lo cho mình để sống còn, bởi lẽ người cộng sản buộc mọi người phải kiểm thảo, tố cáo nhau. Tình người không còn, luân thường đạo lý cũng mất. Một ông bạn về Việt Nam thăm gia đình, ông đã cố gắng hòa đồng để không ai nhận ra mình là “việt kiều”, nhưng vẫn bị lộ tẩy ngay ở Saigon. Tại sao?

- Bà bán cho tôi ly café.

Bà chủ quán đem ly café ra cho ông bạn.

- Cám ơn bà chủ.
- Ông là việt kiều phải không? Bà chủ hỏi.
- Sao mà bà biết?
- Bởi vì ông biết “cám ơn”. Ở đây có ai cám ơn ai bao giờ đâu!

Trong xã hội chủ nghĩa cs, chửi tục / chửi thề là chuyện thường bởi vì cha mẹ đâu có quyền gì trong gia đình mà là bác và đảng, ngay cả học đường bậc tiểu học tuyệt đối không có môn học Công Dân giáo dục. Quí bạn thử nghe một em học sinh lớp nhất tiểu học ở miền Bắc  định nghĩa 2 chữ dũng cảm.

- Dũng cảm là gì, em Tuấn? Cô giáo hỏi
- Nghĩa là…. là…đéo sợ. (4)

Đấy, luân lý đạo đức của con người dưới chế độ này là như thế. Rồi đây các thế hệ trẻ miền Nam cũng sẽ vậy thôi .

Phải chăng con người sinh ra nơi đất cằn sỏi đá, đã hít thở không khí bị ô nhiễm thì tất nhiên phải bị ngộ độc.

Một câu chuyện khác do chính người viết chứng kiến khi còn trong trại tù cải tạo. Một hôm mấy anh em tù ngồi nói truyện với anh quản giáo. Anh quản giáo khoe :

- Tôi sắp đi phép về Bắc một tháng. Đã gần 30 năm xa nhà đi Nam chưa bao giờ được đi phép, nay hòa bình rồi mới được đi đấy.
- Chà! lâu ngày như vậy - tụi tôi lên tiếng- gặp lại chị chắc anh vui lắm phải không ?
- Ấy chết! đâu có được. Mấy ngày đầu, tôi còn phải nghe ngóng xem vợ tôi nó thế nào chứ đâu có bỗng chốc tự nhiên nhảy vào giường với nó ngay được !!! .

Một ông bạn về Việt Nam chơi, vì sợ thất lạc giấy thông hành Visa / Passport gửi bà chị và ông anh rể giữ hộ. Sau hơn một tuần đi chơi khắp Trung Nam Bắc, trước khi trở lại Hoa Kỳ, anh xin bà chị cho lại cái Visa, nhưng ông anh bà chị nhất định đòi chuộc lại với  giá 5000 đô. May mà anh ta còn đủ tiền nên cắn răng nộp tiền chuộc lại tờ thông hành!

Biết bao nhiêu điều chướng tai gai mắt thường xuyên xẩy ra hàng ngày từ gia đình đến xã hội, học đường, cho chí cả tôn giáo, tất cả đều đổ vỡ. Riết rồi lâu ngày cái bất thường trở thành bình thường, chẳng ai thắc mắc.

Một chính quyền tham nhũng, chỉ lo đàn áp bóc lột dân và những người có tư tưởng khác với họ. Giáo dục học đường mất căn bản, bằng cấp giả. Trong giảng huấn, thì lịch sử bị bóp méo, dối trá và sai lạc, không dám nhìn nhận sự thật, quên đi sự thật, nói một đàng làm một nẻo. Như vậy thì xã hôi làm sao không tha hóa được. Xì ke ma túy, cướp giật nhan nhản hàng ngày trên hè phố, đạo đức suy đồi, ăn gian nói dối lửa đảo nhau. Riết rồi chẳng ai tin ai, ngay cả trong gia đình cha mẹ vợ chồng con cái với nhau. Ngoài đường, thấy người bị nạn kêu cứu thì dửng dưng. Vô cảm ở Việt Nam đã thành hiện tượng tự nhiên, ngay cả trong Giáo Hội nơi các viên chức cao cấp !

Nạn bạo hành ở học đường là một dịch nạn lớn trong cái xã hội suy đồi của XHCN Việt Nam hiện nay. Ngay trong lớp học một học sinh đánh một học sinh một cách tàn bạo và hung hãn mà tuyệt nhiên không thấy ai ngăn cản, ngay cả thầy cô dù chỉ bằng lời nói mà chỉ thấy ồn ào tiếng chửi thề  Đ.M, đánh cho chết mẹ luôn…Tôi không hiều các thầy cô hay bộ Giáo dục Đào tạo dạy học sinh cái gì. Chắc họ không bao giờ quên dạy các em  học sinh theo gương đạo đức bác Hồ ?? và sẽ đưa Việt Nam tụt hậu giáo dục và đạo đức cho cả nước và tạo ra một thế hệ vô cảm, vô luân và mất nhân tính.

Đó là chủ đích muốn ngăn cản con người đến với con người, con người đến với Thiên Chúa. Tôn giáo là Đạo là Đường, dẫn con người đến chân thiện mỹ, dạy người ta biết thương yêu quí trọng nhau, giúp đỡ nhau…Nhưng cộng sản coi tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc con người, là kẻ thù, nhất là công giáo, cần phải hủy giệt. Không giệt được thì bằng mọi cách xâm nhập để gây rối, phàm tục hóa, làm mất uy tín, cô lập cho tê liệt luôn.

Loại văn hóa đó là văn hóa gì ? Có người gọi là văn hóa « đồ đểu ».

Cộng sản rất thâm độc, còn tạo phân hóa, nghi kỵ giữa giáo sĩ với nhau, địa phương này địa phương khác như chúng ta thấy ở Giáo Hội miền Nam do Ủy Ban Công Giáo và Dân Tộc với Huỳnh công Minh cầm đầu mà chính loại ủy ban này (Ủy Ban Công Giáo Yêu Nước) đã không thành công ở Giáo Hội miền Bắc. Trong HĐGM người ta thường nói đến « Tam Ca Áo Tím » là nhóm giám mục miền Nam đã khuynh đảo, tạo bè phái trong HĐGM. Chẳng lạ gì đã có những thay đổi bất công, vô lý như vụ TGM Ngô quang Kiệt và GM Nguyễn văn Nhơn ở Hanoi, và người ta còn phỏng đoán có lẽ không sai là sẽ xẩy ra như vậy khi HY Nguyễn văn Nhơn đến lúc già yếu phải về hưu. Và, còn nhiều bất đồng bên trong HĐGMVN là cơ chế đầu não của Giáo Hội Việt Nam. Có vị muốn làm theo ý nhà nước, có vị không. Kình chống nhau, chia rẽ là thế. Nước đục cs thả câu hưởng lợi.

Như vậy thì làm sao con người có thể đến với Thiên Chúa và nhận biết tình thương yêu của Người. Cộng sản chưa đạt được hoàn toàn mục đích của họ nhưng đã phần nào ở miền Nam Việt Nam.

Nguyễn Tiến Cảnh
Fleming Island, Florida
April 4, 2016

(Còn tiếp)


NGUYỄN TIẾN CẢNH - NHỮNG TỒN TÍCH CỦA CỘNG SẢN TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO / LÀM SAO SỐNG CHUNG VỚI CỘNG SẢN ĐỂ HÀNH ĐẠO


LÀM SAO ĐỂ SỐNG CHUNG VỚI CỘNG SẢN ĐỂ HÀNH ĐẠO

Đức HY Phạm minh Mẫn đã có lúc yêu cầu trí thức công giáo / câu lạc bộ Nguyễn văn Bình dựa vào kinh nghiệm sống nơi Giáo Hội miền Bắc trước 1975 và Giáo Hội miền Nam sau 1975 nghiên cứu tìm phương cách làm sao để giữ đạo, sống đạo và hành đạo. Lúc đó ở miền Nam có người cho rằng vì Giáo Hội miền Bắc từ 1945 đến 1975 cương quyết không hợp tác với cộng sản nên bị trù dập, đàn áp và cô lập về mọi mặt trong khi Giáo Hội miền Nam được thong dong vì đã hòa đồng hợp tác ?

Bối cảnh hai miền Nam Bắc hoàn toàn khác nhau từ chính trị văn hóa xã hội đến tôn giáo. Dĩ nhiên Giáo Hội rất ưu tư về tình trạng sa sút luân lý đạo đức của đất nước và của Giáo Hội và ước mong có cơ hội, hoàn cảnh được tự do để chăm lo, sửa đổi giáo hội và xã hội. Điều đó cần phải có sự hợp tác hay ít ra là đồng ý của chính quyền để mình tự do làm công tác bác ái, xã hội, y tế và văn hóa, giáo dục….Nhưng trường học, bệnh viện, cơ sở bác ái…đã bị cộng sản tịch thu hết rồi.

Không thể nói cách sống của Giáo Hội miền Bắc sai và của miền Nam đúng hay ngược lại. Nói vậy là vô tình đã rơi vào bẫy của cs chủ trương gây chia rẽ, phân hóa, đố kỵ đúng như nhận xét của HY Bonizac. Không phải Giáo Hội miền Bắc không chịu hợp tác với nhà nước mà phải nói Giáo Hội không hợp tác với cái ác. Giáo Hội miền Bắc bị trù dập, tàn phá nhưng đức tin của họ không mất, trái lại hoa trái tốt vẫn nảy nở nơi miền đất khô cằn hưu quạnh đó. Biết bao anh hùng thánh đã thể hiện nơi Giáo Hội miền Bắc, đúng như Đức HY Bozanic đã nói : « Khi mà con người dựng nên bức màn sắt ngăn cách thì Thiên Chúa lại gieo hạt giống như những tặng phẩm của đời sống và cho phép nó chết đi…Và rõ ràng là khi người ta cố tình cấm cản sự sống, biến đất lành thành sỏi đá thì chính ở đó lại phát sinh ra hoa trái.. » Một HY Trinh như Khuê, HY Trịnh văn Căn, HY Phạm đình Tụng, một cha Chính Nguyễn văn Vinh, một thày giảng Đỗ bá Lung ở xứ Ngọc Đồng, Hưng Yên và biết bao ông trùm ông trương đã chết rục tù vì quyết giữ niềm tin vào Chúa và cái thiện, đã không mang tiếng hèn nhát, không theo chủ nghĩa thực dụng, thuyết tương đồi, nên danh thơm còn mãi mãi lưu truyền trong lịch sử Giáo hội. Các ngài đâu cần những lời ca ngợi của chính quyền trần thế, lúc chết có vòng hoa phúng điếu lộng lẫy, có lời chia buồn của chủ tịch nước, tổng bí thư đảng, thủ tướng, để nhà nước lấy tên đặt tên đường phố hay cơ sở. Đức HY Tụng lúc nằm xuống chỉ cần tiếng Chúa kêu gọi : «Con đã can trường chịu đựng gian khổ vì ta, hãy về với ta trên thiên đàng. Và đúng vậy Chúa đã chiều lòng ngài không để cho chủ tịch, tổng bí thư, thủ tướng phân ưu, tặng vòng hoa phúng điếu. Các ngài đã là những mục tử, kẻ sĩ chính danh « Tôi trung chỉ thờ có một Chúa » [5] .

Chưa thấy ai chê trách mà chỉ thấy những lời khen, ca ngợi sự can đảm của hàng giáo phẩm và giáo dân miền Bắc, ngược lại những lời phê phán đôi khi gay gắt hàng giáo phẩm miền Nam cả trong sách báo lẫn nơi cửa miệng người dân, đôi khi làm mất cả niềm tin vào đạo của những người ngoài Công Giáo.

GIÁO HỘI MIỀN BẮC : KHÔNG CÒN CHỌN LỰA NÀO KHÁC

Giáo Hội miền Bắc không hoàn toàn hợp tác vói chính quyền cộng sản vì các ngài đã hiểu rõ chủ đích và dã tâm của họ: «Tôn giáo (công giáo) là kẻ thù cần phải tiêu giệt ». Vì có hợp tác hay không thì Giáo Hội vẫn bị trù dập, truy nã bằng cách này hay cách khác. Giáo Hội miền Bắc không còn chọn lựa nào khác.

Giáo Hội miền Bắc từ sông bến Hải trở ra gồm các địa phận Vinh, Thanh Hóa, Bùi Chu, Phát Diệm, Thái Bình, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Hải Phòng và Hanoi. Xin lấy địa phận Hanội là tổng giáo phận thủ đô làm chuẩn để nhận xét và phân tích tình hình.

Giáo Hội miền Bắc bất hạnh vì bị rơi vào thời mà chủ nghĩa cộng sản còn đang mạnh nên họ thẳng tay thi hành chính sách tôn giáo của họ. Giáo Hội miền Nam sau 1975 may mắn hơn, nhất là sau 1989 khi chế độ cộng sản Nga và Đông Âu hoàn toàn xụp đổ, bức màn sắt đã hạ xuống, hơn 2 triệu người dân miền Nam liều chết vượt biển tìm tự do đã làm cho cộng sản luýnh quýnh, thêm kinh tế suy xụp buộc họ phải thay đổi đường lối khiến Giáo Hội miền Nam phần nào dễ thở hơn. Có người quá đơn sơ cho rằng vì Giáo Hội miền Bắc không chịu hợp tác với chính quyền nên Giáo Hội bị bách hại. Năm 1954, khi làn sóng di cư vào Nam đang ồ ạt, ĐC Trịnh như Khuê đã cấm các linh mục không được di cư vào Nam, phải ở lại sống chung với cộng sản. Nhưng vẫn bị đàn áp trù dập tù đầy. Tòa Giám Mục đã từng liên lạc, đối thoại với nhà nước, cả Hồ Chủ Tịch, TT Phạm văn Đồng, nhưng không thành công như vụ thành lập Ủy Ban Liên Lạc người Công Giáo Yêu Nước. Việc họ làm không cần ý kiến của Giáo Hội (6). Cộng sản không bao giờ buông thả những điều cốt lõi của đạo. Giáo Hội miền Bắc đã có lúc phải thà tự đóng cửa tiểu chủng viện và đại chủng viện, sơ tán chủng sinh về với gia đình hơn là để cho chính quyền CS điều khiển, quyền tuyển chọn chủng sinh, định đoạt chương trình giáo dục các chủng sinh, cho người nhà nước vào dạy những môn chính trị trái với giáo lý.

Xin kể một câu chuyện xẩy ra ở nhà thờ lớn Hanội với cha chính xứ kiêm tổng đại diện Nguyễn văn Vinh. Trước ngày lễ Giáng Sinh 1958, nhà nước tự động cho người đến trang hoàng cờ xí ngập trời trước nhà thờ gọi là để mừng Chúa Giáng sinh. Có người báo sự việc cho cha chính Vinh, ngài chạy ra yêu cầu họ ngừng thì kết quả là cha Trịnh văn Căn, phó xứ (sau này lên giám mục rồi hồng y) 12 tháng tù treo, 3 giáo dân Đáng, Chính, Nhiễu bị phạt cảnh cáo, riêng cha chính Vinh bị 18 tháng tù ngồi vì tội phá rối trị an, vu khống xuyên tạc chế độ và gây chia rẽ nhân dân. Cha bị giam ở Hỏa Lò rồi lên Yên Báy kiên giam, biệt giam ở trại Cổng Trời, ác nghiệt nhất, ai đến đó chỉ có chết. Năm 1975 khi cs chiếm được miền Nam, Đức Cha Khuê hỏi chính phủ «Cha Vinh của tôi đâu rồi?» thì được trả lời là tuần sau cha Vinh về. Nhưng cha Vinh đã không bao giờ trở về. Án tù 18 tháng nhưng cha đã kết thúc cuộc đời về với Chúa sau 12 năm ngục tù hành hạ cả thân xác lẫn tinh thần (7).

Ai nói là cộng sản chống phá tôn giáo? Họ giúp đỡ, tạo cơ hội để Giáo Hội tổ chức lễ hội đấy chứ ? Họ cũng đã từng tuyên bố tại Hội Đồng Nhân dân thành phố Hanội trong buổi trao đổi ý kiến với Đức Tổng Giám Mục Ngô quang Kiệt và các cha dòng Chúa Cứu Thế về vụ Tòa Khâm sứ và Thái Hà hồi tháng 9, 2008 là nhà nước đã giúp đỡ, tạo cơ hội dễ dàng cho sinh hoạt tôn giáo nhưng đã bị đức tổng Kiệt phản bác lại rất đích đáng. (8)

Sau vụ Noel 1958 xẩy ra ở nhà thờ lớn với cha chính Vinh, ra điều để cho vui vẻ giữa hai bên nhà nước và công giáo, chính phủ đề nghị với Tòa Giám Mục thành lập một Ủy Ban liên lạc giữa nhà nước và Giáo hội, mọi việc liên quan giữa hai bên phải đi qua ủy ban này, nhưng các thành viên thì Tòa Giám mục không có quyền chọn lựa mà do nhà nước sắp đặt [9]. Tòa Giám mục không đồng ý với tổ chức đó vì biết đây chỉ là lừa bịp, một tổ chức tiền Giáo Hội ly khai giống như ở bên Tàu.

Sau đó, tòa Tổng Giám Mục và các linh mục trí thức nòng cốt của địa phận trở thành có vấn đề. Cha Tổng đại diện Nguyễn văn Vinh, du học Pháp, người rất tài giỏi và cương quyết đã từng chống đối tướng De Lattre de Tassigny thì đã bị đem ra làm vật tế thần để dằn mặt trước rồi, tiếp đến Đức Giám Mục Trịnh như Khuê [10] bị giam lỏng, cấm không cho ra khỏi Tòa giám mục, cha Phạm hân Quynh, du học Pháp về, thư ký TGM bị cô lập, quản thúc tại một giáo xứ ở nhà quê 28 năm (1960-1988), cha Nguyễn trọng Oánh, du hoc Hoa Kỳ về Hanội năm 1955, đúng vào lúc đất nước chia đôi, bị quản thúc biệt giam tại giáo xứ làng quê Truôn Thượng từ 1961 đến 1985 mới được tạm tự do đi lại về giáo xứ Hà Thao thì chết ở đó. Cha Nguyễn văn Thông, du học Bỉ và Pháp về Hanội năm 1955 cùng với cha Oánh cũng bị bắt đem ra tòa kết án 13 năm tù và 3 năm quản chế vì tội tàng trữ sách khiêu dâm, sách báo ngoại quốc và làm gián diệp CIA. Bị giam lúc đầu ở Hỏa Lò 4 năm rồi trại Cổng trời, về Lào Cay rồi lại Cổng trời, rồi lại Hỏa Lò. Cộng chung tất cả là 23 năm tù trong khi án kêu chỉ có 13 năm. Được về nhưng cha vẫn bị quản thúc, cô lập ở một nơi đồng không mông quạnh 10 năm trời nữa (1976-1987). Khi được thả ra thì đã thân già sức kiệt, cha Thông qua đời năm 1991 [11].

Cộng sản chủ trương giết rắn phải chặt đầu. Vậy là tất cả các linh mục ưu tú nòng cốt của địa phận đều bị cô lập, tù đầy cho đến chết, không có được cơ hội giúp Đức Giám Mục, phục vụ Giáo Hội. Các xứ đạo không có linh mục chủ chăn dìu dắt.

Giáo Hội miền Bắc bị trù dập khốn đốn nhưng không tha hóa, bề ngoài trông điêu tàn tưởng là chết, nhưng Giáo Hội không chết. Một cha chính Vinh, cha Thông, cha Oanh, cha Quynh, thầy giảng Đỗ bá Long, giáo dân Lâm văn Túy, các ông trùm ông trương và bao nhiêu giáo dân giáo sĩ vô danh anh hùng khác như những hạt giống được Chúa gieo vào lòng đất, thối đi để sau này sinh ra hoa trái. Tinh thần biểu dương sức mạnh niềm tin qua những vụ thắp nên cầu nguyện cho công lý ở Thái Hà, Tòa Khâm sứ, Đồng Chiêm, Tam Tòa, Mỹ Yên v.v. chính là những hoa trái ấy đang làm cho Giáo Hội sống lại, cho một ngày mai tươi sáng huy hoàng hơn, đã làm mọi người thán phục.

Nguyễn Tiến Cảnh
Fleming Island, Florida
April 4, 2016

(Còn tiếp)


NGUYỄN TIẾN CẢNH - NHỮNG TỒN TÍCH CỦA CỘNG SẢN TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO / GIÁO HỘI MIỀN NAM SAU 1975


GIÁO HỘI MIỀN NAM SAU 1975

Nhìn vào các tội danh mà cộng sản áp đặt lên cha chính Vinh, cha Thông, cha Oánh, cha Quynh, giáo sĩ, giáo dân thì biết chỉ là cái cớ để họ trù dập, ngăn cách giáo dân với giáo sĩ hầu dễ bề  tiêu giệt tôn giáo. Một cựu đại úy quân đội quốc gia, ông Kiều duy Vĩnh, sau hiệp định Geneve 1954 chia đôi đất nước đã ở lại miền Bắc và bị tù đày triền miên cho tới năm 1975 đã cho biết «nếu ông có đạo công giáo, biết làm dấu thánh giá thì ông không thể sống sót cho đến ngày nay» [12]. Ở miền Nam sau 1975, khi CS chưa mở cửa, thì tình trạng xẩy ra cũng giống như ở miền Bắc sau năm 1954. Ai có thể nói vì Giáo Hội miền Nam chịu hợp tác với nhà nước nên được yên lành và tự do hành đạo ?

Chúng ta có thể chia Giáo Hội miền Nam làm hai thời kỳ: Thời kỳ chưa cởi trói và thời kỳ mở cửa.

Thời kỳ quá độ / chưa cởi trói (1975-1989)

Khi cộng sản tiến chiếm Saigon ngày 30-4-75, Giáo Hội miền Nam -không kể những người vượt biên chạy trốn ra nước ngoài- những ai ở lại, giáo dân cũng như giáo sĩ ai cũng muốn hòa nhịp với làn sóng « cánh mạng », vì nghĩ rằng đất nước đã hòa bình thì phải hợp tác với chính quyền mới để xây dựng đất nước. Đa số người dân chưa hiểu cộng sản là gì đều nghĩ rằng cs cũng là những người yêu nước? Tất cả các giáo phận miền Nam đều trao nộp cho chính phủ các cơ sở từ thiện, giáo dục, nhà thương, trường hoc và đặt mình dưới sự điều khiển của nhà nước « cách mạng ».

Đức Cha Nguyễn kim Điền, TGM Huế ngay từ đầu đã tuyên bố «sẵn sàng hợp tác để xây dựng đất nước, sau những năm tháng dài chiến tranh đổ nát», nhưng cuối cùng cũng chẳng xong. Người cộng sản quyết tâm tiêu giệt tôn giáo nên không còn chọn lựa nào khác, ngài bắt buộc phải ở tư thế tự vệ rồi cũng bị trù dập, khủng bố, hàng ngày phải đến trình diện Ủy Ban Nhân dân thành phố để ‘làm việc’. Cuối cùng Ngài đã chết một cách mờ ám tại bệnh viện Chợ Rẫy. Linh mục Nguyễn văn Lý, thư ký của ngài tháng 9-1977 cũng bị bắt vì liên hệ đến việc phổ biến bài tham luận về Tự Do Tôn Giáo của Đức Tổng Điền, bị kết án 20 năm tù. Rồi tha rồi bắt lại, bắt đi bắt lại cho đến hiện nay vẫn còn đang ngồi tù. Lm Nguyễn văn Lợi bạn tranh đấu cho tự do tôn giáo của cha Lý cũng bị tù rồi được tha và bị quản thúc tại gia, không được thi hành thiên chức linh mục cho đến hiện nay. Tất cả các giám mục ở những thành phố nhỏ xa Saigon đều bị làm khó dễ, cấm không được di chuyển khỏi Tòa Giám Mục, không được đi Roma viếng mộ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolo theo luật định như Giám Mục Ban-mê-Thuộc Nguyễn Huy Mai v.v…Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh Đức Cha Nguyễn văn Bình, TGM Saigòn cầm quốc xẻng đi thủy lợi mở màn cho chiến dịch hợp tác với chính quyền để xây dựng đất nước của người Công Giáo nhưng cũng không được yên thân. Cộng sản lập sẵn một Ủy Ban Công Giáo và Dân Tộc làm trung gian liên lạc với chính quyền, nhưng đó chỉ là xảo kế giống như Ủy Ban Những Người Công Giáo Yêu Nước Yêu Hòa Bình ở miền Bắc sau 1954 với mục đích kiểm soát Giáo Hội và chủ trương ly khai. Ủy ban này gồm những linh mục và giáo dân cộng sản đã từng trục xuất khỏi Saigon đức Khâm sứ Tòa thánh Le Maitre, đã bắt Đức Giám Mục Nguyễn văn Thuận bỏ tù sau ngày 30-4-75. Tòa giám mục Saigòn chỉ còn một mình Đức Tổng Bình chúng sẽ dễ dàng khống chế và lừa phỉnh. Bao vây ngài lúc đó toàn là những linh mục và giáo dân cấp tiến. Thành lập ủy ban này, đoàn cố vấn nọ nói là để giúp ngài điều hành giáo phận cho qua cơn sóng gió, nhưng bên trong là âm mưu khống chế, làm nội tuyến hầu dễ bề tiêu diệt Giáo Hội. Linh mục Huỳnh công Minh là đảng viên CS lại làm Tổng đại diện giáo phận, hẳn tha hồ dòm ngó kiểm soát sinh hoạt của giáo phận, đến nỗi sau này lúc cuối đời, báo chí ngoại quốc phỏng vấn đức tổng Bình cảm nghĩ  của ngài về cộng sản thì ngài chỉ nói gọn «Đến bây giờ tôi vẫn sợ». Xem vậy đủ biết cái vòng bao vây, kìm kẹp, khủng bố nó ghê gớm thế nào! Cho đến nay đã hơn 40 năm mà Huỳnh công Minh vẫn chễm chệ ngồi ở ghế Tổng Đại diện giáo phận kiêm chánh xứ nhà thờ Đức Bà, Phó Giám đốc Đại chủng viện, nơi đào tạo các linh mục tương lai thì thử hỏi CS đã kiểm soát Giáo Hội chặt chẽ thế nào. Vì Đức Cha Nguyễn văn Bình đã già yếu không thể coi sóc giáo phận được nữa, Tòa Thánh đặt Giám Mục Huỳnh văn Nghi lên thay thế thì nhà nước bằng mọi cách ngăn cản không cho ngài về Saigòn nhận chức chỉ vì ngài không đồng ý để Huỳnh công Minh ở vị trí Tổng Đại diện.

Ai biểu Đức Cha Bình chống đối nhà nước? Vậy mà ngài cũng vẫn còn sợ ? Giáo Hội cũng vẫn bị điêu linh, không chết như giáo hội miền Bắc, nhưng bị khốn đốn và tha hóa sau này ai cũng đã thấy. Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo và Dân tộc đứng đầu là Huỳnh công Minh, Trương bá Cần, Phan khắc Từ, Thiện Cẩm…là một ổ nội tuyến, nắm vai trò chính ủy để thao túng giáo hội.

Cũng cần nhắc lại ở đây, vì đức tổng Bình muốn hợp tác chân thành với chính quyền để xây dựng đất nước, ngài đã thành lập một ban cố vấn gồm :

-Cha Trần Thái Hiệp, Giám đốc Đại chủng viện
-Cha Chân Tín, DCCT
-Cha Nguyễn Huy Lịch, Dòng Đa Minh
-Cha Huỳnh công Minh, UBĐKCG, chánh xứ nhà thờ Đức Bà, Tổng đại diện Giáo phận Saigon, Phó giám đốc ĐCV.
-Cha Phan khắc Từ, UBĐKCG
-Ông Nguyễn đỉnh Đầu, nhân sĩ
-Cha Mai xuân Hậu, chánh xứ Hà Đông Xóm Mới

Ban cố vấn họp mỗi thứ hai hàng tuần…..Trong tập hồi ký của Lm Mai xuân Hậu,  thành viên ban cố vấn, ngài có nhắc lại chuyện xẩy ra trong một buổi họp có Huỳnh công Minh:

« Cũng vẫn là buổi sinh hoạt thường lệ có đầy đú Ban Cố Vấn và có cả Đức Tổng GM Bình, Đức cha Phụ Tá Nẫm nữa. Vừa ngồi vào ghế thì Đức Tổng Bình nhìn thẳng vào tôi và nói: « Tôi được tin báo, trưa thứ bảy vừa rồi cha được công an thành đến tận nhà làm việc có phải không ? Cha có thể cho chúng tôi biết qua sự việc được không ? »
« Tôi bình tĩnh thuật lại : Khoảng 1 giờ trưa thứ bảy, con đang ngủ trưa thì có tiếng đập cửa phòng rất lớn, con dậy và mở cửa thì thấy anh Tư Châu, đứng đầu công an vùng Gia Định, cơ quan đóng ở Ngô Tùng Châu, mà con đã được hân hạnh tiếp xúc nhiều lần. Anh bước vào phòng con, có cận vệ cắp súng đứng gác cửa phòng. Con chào và hỏi có chuyện gì anh Tư đến lúc giờ ngủ trưa thế ? Anh nói ngay : Trong tuần tĩnh tâm ở Thái Mỹ, Củ Chi, linh mục đã nói « Bán đứng » là thế nào ?
« Con mời anh ấy ngồi và rót nước mời uống và con bắt đầu trả lời : Anh Tư không đi tĩnh tâm với chúng tôi nên chắc có ‘angten’ tố cáo nên anh Tư cần nghe tôi trả lời. Đúng, tôi có nói : ‘Đừng bán đứng chúng tôi trong giờ ngủ trưa ở Thái Mỹ….’ Con nói ôn tồn nhưng không kém mạnh mẽ. Ở đây, thưa Đức Tổng, con chỉ tóm gọn mấy điểm chính.
« Tuần tĩnh tâm ở Thái Mỹ này là tuần tĩnh tâm đầu tiên của giáo phận trong năm đầu của đất nước Việt Nam Xã Hội Thống Nhất. Chúng tôi cảm ơn chính phủ cách mạng đã cho chúng tôi một tuần tĩnh tâm. Nhưng tôi không hoàn toàn đồng ý về mục đích của tuần tĩnh tâm mà một số linh mục ‘yêu nước’ đã nhiều lần tuyên bố: Đúng ra tất cả các linh mục đều phải tập trung đi cải tạo, nhưng nay chúng tôi (linh mục yêu nước) đã bảo lãnh với cách mạng là dùng tuần tĩnh tâm này để cải tạo, nên việc đạo đức chỉ chiếm một số giờ rất nhỏ, suốt ngày toàn là lao động, cuốc đất, trồng trúc, chặt trúc và học tập chính trị. Có các cán bộ cách mạng thường xuyên và liên tục thuyết trình về Cac-Mác, Lê Nin và Bác Hồ.
« Con nói rõ với anh Tư : Nếu sang năm còn tổ chức tĩnh tâm như loại này, con sẽ không đi. Trong thánh lễ không cần lễ phục mà chỉ cần quần xà lỏn áo thung rồi đeo giây stola là đủ. Không được nhắc cầu nguyện cho các linh mục tuyên úy đang được cải tạo vì các ngài là tội phạm của chế độ, mà cầu nguyện cho tội phạm là phản động.
« Soạn thảo một sứ điệp của các linh mục dự tĩnh tâm cho toàn thể giáo dân của cả giáo phận. Con phản đối sứ điệp này, vi từ xưa tới nay, biết bao tuần tĩnh tâm mà đâu có sứ điệp gì nên không cần soạn sứ điệp gì cả. Nhưng sứ điệp vẫn được soạn thào, và lúc soạn thảo lại chọn giờ ngủ trưa trong dãy nhà tôn thấp lè tè, các cha già kể cả con, phải lấy khăn mặt xấp nước đậy lên mặt cho đỡ nóng. Thế mà ban soạn thảo cứ to tiếng, chọn câu, chọn chữ, dùng từ…làm con tức mình nói thành tiếng :‘các ngài đang bán đứng chúng tôi’. Có tiếng cười bên cạnh giường, con mở mắt ra nhìn, con thấy ai cười (con không cần nói ai cười). Và rồi sau tuần tĩnh tâm vừa về đến nhà xứ chiều thứ sáu thì trưa thứ bảy, anh Tư đến thăm sức khỏe con.
« Con giải thích ý nghĩa « bán đứng » cho anh Tư nghe: Người đời vẫn nể các linh mục vì các ngài học nhiều, biết tiếng latinh, tiếng Pháp, tiếng Anh mà tờ sứ điệp này lại hành văn không đúng, dùng chữ sai…thế chẳng phải là « bán đứng » chúng tôi hay sao ?
« Anh Tư biết tôi dạy văn gần hai chục năm. Ca tụng chế độ không khéo và không tế nhị thay vì động viên giáo dân lại bị phản tác dụng, như thế không là « bán đứng » hay sao ? Cách mạng cũng không cần những tuyên truyền hạ cấp, thô thiển rẻ tiền… như vậy cũng là « bán đứng » chứ còn gì ?
« Và con đề nghị với anh Tư : Linh mục chúng tôi, Giáo Hội chúng tôi ước muốn mỗi năm có một tuần tĩnh tâm truyền thống tại Đại Chủng Viện để chúng tôi hoàn toàn ra trước mặt Chúa chúng tôi để tĩnh tâm.
« Đức Tổng góp ý :May mà là cha, nếu là một cha khác chắc đã bị bắt đi cải tạo. Tôi tiếp lời ngài : Thưa đức Tổng, nếu những báo cáo « angten » như thế này còn xẩy ra thì hàng ngũ linh mục nói riêng và toàn dân nói chung sẽ bị phân hóa, không còn ai tin vào ai nữa !
« Một cha, con không cần dấu tên, cha Huỳnh công Minh đã tuyên bố:« Tôi là linh mục, nhưng cũng là một công dân, là công dân tôi có quyền và có bổn phận tố cáo tất cả những ai phản động ».
« Con tiếp lời: Cái mũ phản động hiện nay rất nhiều, rất rộng và rất ác độc, đê tiện, xin đừng chụp mũ. Phải nghĩ đến Chúa và ngày mai ».(13)

Sau khi bao vây Đức cha Nguyễn văn Bình, CS bắt đầu trừ khử các nhà dòng, tu viện nam nữ như dòng Chúa Cứu Thế, Đồng Công, khổ tu Châu Sơn, nhà thờ này, cha xứ nọ từ ngoài Trung vào đến Saigòn rồi Cần Thơ, đồng bằng Cửu Long. Tất cả đều bị gán ghép những tội mà chẳng bao giờ họ làm để có cớ tịch thu tài sản, bắt giáo sĩ đi tù. Dòng Châu Sơn, dòng Đồng Công ở Thủ Đức, một dòng chuyên tu đức cũng bị tố cáo tàng trữ vũ khí và lương thực để chống phá cách mạng. Thế là nhà dòng bị tịch thu, cha bề trên và các thày bị bắt bỏ tù cải tạo. Cha xứ nhà thờ Vinh Sơn ở đường Trần quốc Toản cũng bị tố cáo có súng, có quần lót, nịt vú đàn bà trong nhà để rồi bị bắt tù và chết không hề ra tòa xét xử. Cha Thi chánh xứ nhà thờ Bắc Hà bị đập bể đầu chết trong đêm tối. Cha Hoàng Quỳnh thì tên Thúy, cận thần của ngài mấy chục năm trời, sau 1975 mới lộ ra là CS nằm vùng mang cấp bậc đại tá nói là chẳng cần giết ông làm chi, cứ nhốt ít tháng rồi ông sẽ chết thôi. Quả vậy chúng nhốt ngài ở building Ngã Ba Ông Tạ thì hơn tháng sau ngài qua đời.

Thời gian này mọi linh mục, giáo sĩ, nữ tu, tất cả đều sợ hãi, có người không dám nhận mình là linh mục. Không ai bảo ai không ông cha hay bà sơ nào mặc áo dòng đi ngoài đường như trước kia. Các linh mục ở mỗi địa phận không được phép họp mặt cấm phòng theo định kỳ như dưới thời VNCH. Mất liên lạc, xa giám mục bản quyền thì vấn đề đạo đức cá nhân và sinh hoạt xứ đạo sẽ bị sao lãng và bê bối thôi.

Đối với giáo dân, các đoàn thể, hội cầu nguyện… cũng không được hoạt động. Việc tụ họp hai ba gia đình lại với nhau để đọc kinh cũng bị cấm. Ở nhà thờ trong giờ kinh lễ, ông cha cũng phải giữ mồm giữ miệng nơi tòa giảng kẻo bị gán cho cái tội chống phá cách mạng. Vùng kinh tế mới thì hoàn toàn không nhà thờ, không linh mục. Tất cả các linh mục tuyên úy QLVNCH đều bị tập trung tù cải tạo không biết ngày về. Ở trong tù  cũng không được phép làm lễ, không được đeo ảnh Thánh Giá. Khi được thả về không được thi hành thiên chức linh mục,  làm mục vụ, không được sống ở nhà xứ, không được coi xứ đạo mà phải về sống với gia đình tản mát trong dân chúng và phải trình diện công an phường khóm mỗi tuần mỗi tháng.

Ngăn cách giám mục với linh mục, linh mục với giáo dân và giáo dân cách giáo dân vẫn là chủ đích của cộng sản để làm tê liệt hầu dễ bề triệt tiêu tôn giáo.

Sau khi đã khủng bố đầu não Giáo Hội, cộng sản đưa ra đường lối cho GH theo. Câu nói «Tốt Đời Đẹp Đạo» là châm ngôn để thi hành. Nhưng đó chỉ là ngụy biện có mục đính phủ dụ và tuyên truyền. Tốt Đời theo chủ nghĩa cs chưa chắc đã Đep Đạo, hoặc ngược lại Đẹp Đạo chưa chắc đã làm vừa lòng đảng cs. Linh mục giáo sư Thanh Lãng, vì hăng say muốn cải đổi giáo hội và đất nước đã hùa theo đà cấp tiến làm những điều quá lố để rồi  khi chết đã hối hận viết thư ăn năn, xin lỗi Đức Khâm xứ Tòa thánh. Linh mục Chân Tín, cựu linh mục Nguyễn ngọc Lan một thời đi với cộng sản, bây giờ vỡ mộng. Bài giảng xám hối của linh mục Chân Tín tại nhà thờ DCCT đường Kỳ Đồng là phát súng lệnh và cũng là cái cớ để cha Chân Tín và Nguyễn ngọc Lan bị lưu đầy và theo dõi.

Song song với thời gian đánh phá tôn giáo là thời gian đánh tư sản mại bản, lùa người dân thành phố đi kinh tế mới, đổi tiền, bần cùng hóa nhân dân, biến dân thành phố thành nghèo đói phải bán đồ đạc trong nhà từ cái chổi, cái bát, đôi đũa đến cái giường…để sống qua ngày. Thanh niên phải đi thanh niên xung phong, làm nghĩa vụ quân sự tại chiến trường Cao Mên. Miền Nam trở thành tiêu điều xơ xác, bị quốc tế phản đối, Hoa Kỳ cấm vận. Đây quả là thời gian đen tối nhất, không một gia đình nào ở miền Nam không có mối lo, chồng đi tù cải tạo không biết ngày về, vợ con ở nhà đói khổ lại bị kỳ thị, khủng bố tinh thần, công an phường khóm ngày đêm theo dõi. Dân chúng miền Nam, ai cũng lo tìm đường vượt biển, bất chấp hiểm nguy miễn sao thoát ách độc tài cộng sản. Chưa một cuộc vượt biển tỵ nạn chính trị nào hiểm nguy và vĩ đại như cuộc vượt biển trốn cộng sản của dân miền Nam Việt Nam đã làm rúng động thế giới, cải hóa tư duy của những kẻ đã một thời tung hô chủ nghĩa cộng sản, ủng hộ cộng sản Bắc Việt, MTGPMNVN hết mình như Bertrand Russell, Jean Paul Sartre và Raymond Aron…Những tên phản chiến sáng mắt. Thế giới sáng mắt. Nhưng cộng sản Việt Nam vẫn nhất định không chịu mở mắt, phải đợi đến khi chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn xụp đổ ở Liên Sô và Đông Âu, bức tường Đông Tây Bá Linh xụp đổ vào năm 1989.

Nguyễn Tiến Cảnh
Fleming Island, Florida
April 4, 2016

(Còn tiếp)


NGUYỄN TIẾN CẢNH - NHỮNG TỒN TÍCH CỦA CỘNG SẢN TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO / THỜI KỲ CỞI TRÓI, HÉ MỞ BỨC MÀN TRE


Thời kỳ cởi trói, hé mở bức màn tre

Dân chúng miền Nam Việt Nam thở phào nhẹ nhõm, ước mong cộng sản Việt Nam cũng xụp đổ như ở Đông Âu. Nhưng cho đến giờ…cộng sản vẫn còn đó. Tuy nhiên cộng sản không thế bơi ngược giòng nước, đưa tay chặn bánh xe lịch sử. Chẳng đặng đừng, cộng sản Việt Nam phải cởi trói.

Cởi trói nhưng cốt lõi vẫn là cộng sản độc tài toàn trị, vẫn lăm le cái còng số 8. Cảnh bình mới rượu cũ -hiện tượng «Vũ như Cẩn»- vẫn là một thực tế từ hơn 40 năm nay. Hiến pháp thì cho tự do tôn giáo, nhưng pháp lệnh này qui định nọ vẫn trói chặt tôn giáo trong chuồng. Mục đích của họ là giết chết tôn giáo, nếu không được thì bôi bẩn, làm cho tê liệt. Họ đã dùng tôn giáo phá tôn giáo, mượn chính tay giáo sĩ, giáo dân, linh mục, cả giám mục để làm suy yếu Giáo Hội. Dùng bàn tay nhung đối với những ai chịu nghe theo chúng, bàn tay sắt đối với những ai cứng đầu. Chiến thuật củ cà rốt và cái gậy đã được áp dụng triệt để. Ai chấp nhận củ cà rốt thì được dễ dãi, ưu đãi. Ai cương quyết theo đường lối của Chúa thì phải chấp nhận cái gậy, bị làm khó dễ, bị hành hạ. Chiến thuật này có thời đã thành công bởi lẽ con người «tinh thần thì nhẹ nhõm mà thân xác thì nặng nề» [14]. Chả vậy mà đã có một thời cả Giám mục, linh mục, dì phước lũ lượt xuất ngoại quyên tiền để làm nhà thờ, tu bổ nhà xứ, trung tâm phát triển đạo, thậm chí sau này có người nói họ «Xây thì ít mà Cất thì nhiều!». Quyên góp tiền để đào giếng cho giáo dân có nước trong sạch uống thì chẳng thấy giếng đâu, chỉ thấy tòa Giám Mục thì nguy nga ‘hoành tráng’, xe của giám mục thì lộng lẫy hơn cả xe của tỉnh ủy[15]. Quyên tiền về giúp đỡ các cha già hưu dưỡng, các cha hưu không hề nhìn thấy măt đồng dollar thế nào thì đùng một cái được tin tiền đó đem đầu tư, kinh doanh để sinh lời đã bị thua lỗ mất hết rồi! (16). Mất hay nó chạy vào túi ai thì chỉ có Chúa biết. Các cha già đang hưu ở một trung tâm kia thì bị đuổi đi để làm cư xá cho nữ sinh viên. Nếu các cha già không quyết liệt phản đối thì nhà hưu dưỡng đã bị chiếm để biến thành nơi thương mại rồi (17). Nên nhớ tiền xin được ở hải ngoại đem về thì cũng phải chia chác đấy. Biết bao nhiêu chuyện hỉ nộ ái ố đã xẩy ra dòng dã bao nhiêu năm trời.

Cộng sản rất tâm lý, họ hiểu biết nhu cầu của Giáo hội là cần linh mục, cần nhà thờ, cơ sở truyền đạo, tài liệu truyền giáo …nên việc đầu tiên là họ triệt hạ, ngăn cấm những thứ đó khiến cho nhu cầu càng trở nên cấp bách. Chúng ta thấy bước đầu tiên là họ đóng cửa các chủng viện, dòng tu, giới hạn chủng sinh, tu sinh bằng những điều kiện khó khăn ngược với qui luật của Giáo Hội. Theo luật cung cầu, khi nhu cầu càng cao thì giá cả lại càng đắt và dễ bề hoạt động. Để tỏ vẻ là dễ dãi, cởi mở, chính quyền lập ra cơ quan làm trung gian. Muốn xin điều gì thì phải qua trung gian là Ủy ban Công Giáo Yêu Nước sau này đổi tên là Công Giáo và Dân tộc. Cơ chế Xin-Cho bắt đầu xuất hiện.

Ai nói nhà nước không cho tự do tôn giáo? Có tự do chứ, nhưng phải xin để được cứu xét và phải có điều kiện. Nhưng đơn xin thì chẳng bao giờ thấy hồi đáp, nếu có thì lại bị giới hạn. Chẳng hạn HĐGMVN xin phép ra một tập san thuần túy tôn giáo từ năm 1992 mãi đến năm 2001, bộ văn hóa thông tin mới cho HĐGM tạm thời xuất bản một bản tin nhưng với điều kiện phải « phù hợp với lợi ích của đất nước và Giáo Hội ». Cũng lại kiểu Tốt Đời Đẹp Đạo. Ngoài ra bản tin lại chỉ được ra hai tháng một lấn và mối lần chỉ có 100 tập để phân phát cho 25 giáo phận với hơn 7 triệu giáo dân. Ai đọc ai đừng? Cơ cấu Xin-Cho quả là một con sông cách trở có giòng nước xoáy.

Ủy ban Công Giáo Yêu Nước tức Công Giáo & Dân Tộc gồm Huỳnh công Minh, Trương bá Cần, Phan khắc Từ, Thiện Cẩm thì một mặt đóng vai trung gian giữa Giáo Hội và nhà nước một mặt là người của đảng vẫn trung thành với bác và đảng, đã không thành công ở miền Bắc, nhưng đã thành công ở miền Nam. Chính cái Ủy ban này đã lũng loạn Giáo Hội miền Nam. Giám mục, linh mục, cha xứ nào -vì nhu cầu- muốn gì phải qua nó, khi năn nỉ, khi hối lộ. Đảng và nhà nước muốn Giáo Hội phải đi qua cái ủy ban môi giới giáo gian đó, một ổ chuột linh mục có vợ có con…mà cả HY, GM không ai dám đụng đến thì hỏi còn đâu là Giáo Hội tinh tuyền. Cộng sản đã phá nát Giáo Hội mà có người vẫn dửng dưng coi như không biết, viện đủ mọi lý cớ để tự an ủi cho một lương tâm co dãn, một thỏa hiệp với kẻ dữ, một quỵ lụy đắng cay hèn nhát và bỉ ổi. Cộng sản đã tạo ra một xã hội cửa quyền, khiến Giáo Hội phải phụ thuộc vào nó, thành một mạng lưới đồng nhất chằng chịt từ trên xuống dưới ăn khớp với nhau theo đường lối của đảng. Những gì đụng tới đảng thì tuyệt đối không chấp nhận. Đảng và nhà nước cứ việc uyển chuyển xoay vần bóp nắn. Tha hóa là thế đó. Huỳnh công Minh, nắm trọn những chức vụ quan trong của tổng giáo phận, làm « chính ủy » thì có cái gì có thể thoát khỏi con mắt cú vọ của ông. Tuyển sinh linh mục thì đã phải sàng lọc từ địa phương, khi đến đại chủng viện thì lại có Huỳnh công Minh, kiểm soát và nắm tất cả chương trinh huấn luyện, rồi trước khi phong chức linh mục lại phải qua một thời kỳ cam go nữa. Được làm linh mục hay không là ở lúc này. Chuyện chạy vàng, chạy tiền đã xẩy ra, ai cũng biết cả. Một linh mục kể lại khi « mặc cả » để được chịu chức linh mục, cán bộ nhà nước đã nói ‘mai mốt làm linh mục rồi thiếu gì tiền !  Không tiền không vàng vẫn được đỗ cụ thì ai cũng có thể đoán biết tại sao.

Giáo Hội đã bị tha hóa, lũng loạn từ trên xuống dưới. Cả cái ủy ban Công Giáo và Dân Tộc, gọi là liên lạc giữa nhà nước và Giáo Hội cũng là cái tổ chuồn chuồn sinh ra nhiều  tội ác với người, với Giáo Hội và với Chúa. Là con người có lúc tâm hồn lắng đọng cũng phải biết nghĩ đến điều phải trái. Cha Phạm hân Quynh kể chuyện mấy ông linh mục Đoàn Kết trong Saigon năm 2002 ra Đông Xuyên gặp cha, gồm cả bộ ba TBC, TC và PKT.  Mới đầu TBC tấn công ngay :

-Cha Quynh à, tôi gặp cha để trách cha. Tôi coi cha như anh cả. Thấy tôi sai sao cha không cản tôi…để bây giờ không lùi được nữa…mắc bẫy rồi.
-Làm sao tôi cản các cha được. Đường quang không đi lại quàng vào đường rậm. Mắc bẫy là đúng rồi. Bây giờ chỉ còn cách….
-Mấy cha nháo nhác hỏi, cách gì ?
-Các cha có can đảm thừa nhận hết tội lỗi với Giáo Hội và từ bỏ vướng mắc chuyện vợ con không ?
Linh mục PKT lắc đầu :
-Không đủ can đảm. Không lùi được nữa….Có muốn lùi cũng không lùi được cha ơi !
Cha Quynh bảo :
-Phản lại Chúa thì khổ lắm. (18)

Từ ngày cs chiếm Saigon đến nay đã để lại biết bao tồn tích trong Giáo Hội về đủ thứ Tình-Tiền-DanhVọng với những tham sân si chằng chịt lộ liễu cũng như âm thầm lén lút ?

Giáo Hội miền Bắc trứơc 1975 đã chọn «quí hồ tinh bất quí hồ đa», linh mục chui, chấp nhận đóng cửa cả tiểu chủng viện lẫn đại chủng viện nhất định không để CS kiểm soát hoạch định chương trình huấn luyện linh mục. Trong suốt học trình 7 năm huấn luyện để thành linh mục dưới sự kiểm soát của CS, ai có thể bảo đảm đảng không gài người của họ vào hàng ngũ linh mục rồi giám mục? Các tôn giáo khác đã bị như vậy thì  công giáo cũng không là ngoại lệ. Đây là một tồn tích rất nguy hiểm mà cộng sản đã để lại trong Giáo Hội. Làm sao để tẩy rửa cho sạch ?

Cộng sản có đủ mọi mánh khóe để gài người. Trước tiên còn vì công tác mục vụ, nhu cầu đạo nên cần phải giao thiệp ngoại giao, liên lạc, quà cáp biếu xén làm thân với chính quyền, dần dà rồi có đi có lại nhậu nhẹt với nhau. Tôi đã thấy một linh mục trước kia rất đạo đức vậy mà sau này nhậu nhẹt say sưa bê bết đến độ làm mất cả thể diện và nhân cách. Hỏi tai sao như vậy thì được trả lời vì phải ngoại giao với chính quyền nên chén anh chén tôi mới ra nông nỗi. Rượu vào thì cái gì xẩy ra ai mà làm chủ được mình. Tình và Tiền là hai thứ đã từng làm nhiều người điêu đứng. Nạn nhân một khi đã bị thuần hóa thì còn đâu là lý tưởng mà chỉ làm việc theo lệnh chủ. Tại sao một địa phận trống ngôi giám mục cả mấy chục năm mà Giáo Hội không làm sao giải quyết được? Bởi vì nhà nước không đồng ý vị giám mục do Giáo Hội đề nghị. Chỉ khi nào Giáo Hội đề nghị người mà họ ưng ý hay Giáo Hội chấp nhận người họ đề cử thì tòa đó mới được giải quyết. Lúc đó có thể vị giám mục đó có vấn đề đấy ?

Cái di sản đó không biết bao giờ mới phai nhạt đi được nơi Giáo hội. Nó đã có, đang có và vẫn còn. Tai nạn này không chỉ xẩy ra ở Việt Nam mà ở tất cả các nước cộng sản. Một Ba Lan với tổng giám mục Stalislaw Wielgus đã phải từ chức ngay hôm nhận chức TGM Vaxava ngày 8-1-2007 là một điển hình.Tôi biết một linh mục có tiếng là thiên cộng từ thời còn là sinh viên du học ngoại quốc. Sau 1975 ông lang thang ở ngoại quốc, vậy mà đùng một cái thấy ông ở Việt Nam giữ nhiều nhiệm vụ quan trọng trong khi nhiều linh mục du học khác xin về VN phục vụ mà không được. Thế rồi sau đó ông trở thành Giám mục. Biết đâu có ngày ông trở thành TGM? Nhìn quả biết cây. Và chắc chỉ có đảng và nhà nước là biết rõ nhất.

Có lẽ nay là lúc HĐGMVN cũng nên theo gương các Giáo Hội Đông Âu hậu cộng sản, lấy công tâm, theo đúng luật Giáo Hội và lòng dân để sắp đặt các vị lãnh đạo vào vị trí thích hợp. Không thể vì áp lực hay thiên kiến, bè phái mà thuyên chuyển hay đặt để. Nếu cứ hành động như vây theo ý nhà nước thì một ngày kia GHVN sẽ được dẫn dắt bới các cán bộ nhà nước. Giáo Hội trở thành giáo hội nhà nước / quốc doanh lúc nào mà không hay.

Đó phải chăng là tự do tôn giáo mà đảng ban cho? Khi nói là cởi trói hay cởi mở thì đừng nghĩ là cởi mở về mọi phương diện, ngay cả mặt kinh tế gọi là kinh tế tự do/thị trường mà vẫn còn kèm theo hàng chữ «theo định hướng xã hội chủ nghĩa». Đi ra ngoài đường lối của đảng hay có đôi chút đụng vào huyết mạch của đảng thì tuyệt nhiên không được. Vì vậy khi nói truyện với người cộng sản thì điều gì cũng được cả, nhưng thực tế không như lời họ nói. Cứ nhìn những việc trước mắt gần đây nhất như vụ Tòa Khâm xứ, Thái Hà và những vụ dân oan khiếu kiện bị mất đất mất nhà thì đủ biết. Người cộng sản có bao giờ nhân nhượng ai đâu.

Sống với một người không biết điều đã là khó, nói chi phải đối thoại với một chính quyền độc tài toàn trị chỉ chấp nhận những điều do họ đưa ra mà thôi.

Nguyễn Tiến Cảnh
Fleming Island, Florida
April 4, 2016

(Còn tiếp)


NGUYỄN TIẾN CẢNH - NHỮNG TỒN TÍCH CỦA CỘNG SẢN TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO / ĐÔI LỜI KẾT


ĐÔI LỜI KẾT

Người viết vẫn còn nhớ khi còn ở trong tù cải tạo, mỗi khi muốn phát biểu ý kiến thì phải xác nhận lập trường của mình trước: « Tôi xin đứng về phía nhân dân và nhà nước… » Điều đó có nghĩa là anh muốn nói gì thì nói, đả kích hay ca tụng, nhưng luôn luôn phải đứng trên lập trường của nhân dân. Mà nhân dân tức là Đảng và Nhà Nước. Đi ngược lại cái cốt lõi, huyết mạch đó là không được. Mác đã nói: « Tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc con người », là « kẻ thù của nhân dân » thì phải hiểu là tôn giáo không có chỗ đứng nơi đảng cộng sản. Cứ nhìn việc làm của họ thì hiểu ý họ. Đừng nghe những gì cộng sản nói. Đừng hy vọng đối thoại với cộng sản để có thể cải hóa họ. Họ thả chỗ này, xiết chỗ kia. Đương kim TT Nga Vladimir Putin nói : « Kẻ nào tin lời cộng sản nói là không có cái đầu ; kẻ nào làm theo lời cộng sản là không có trái tim. » Cựu tổng thống Nga Sô Yetsin, một đảng viện cộng sản nòng cốt kỳ cựu đã tuyên bố : « Cộng sản không thể thay đổi được, chỉ có phế bỏ nó đi mà thôi ».

Vậy thì muốn sống với cộng sản, hòa giải với cộng sản để giữ đạo và hành đạo, người Kitô hữu chỉ có thể dùng trí thông minh, sự khôn ngoan và niềm tin cương quyết của mình mà quyết định, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói: «Hợp tác nhưng đề kháng ».

Đồng thời chúng ta cũng phải cầu nguyện như một giám mục Việt Nam đã nói : Đứng trên quan điểm loài người mà xét thì thật đáng thất vọng. Chúng ta hãy cầu nguyện và ước gì lời nguyện cầu của chúng ta được thể hiện bằng những hành động cụ thể [19].

Bổn phận của Giáo Hội, của mục tử và giáo dân là rao truyền Tin Mừng, cải tạo xã hội để giúp con người biết thương yêu nhau như Chúa đã dạy. Muốn vậy thì công bằng và công lý phải được thực hiện. Để xã hội có công bằng và công lý thì chính quyền cần phải có luật pháp phân minh và luật pháp phải được thi hành một cách công bằng.

Xã hội nào vẫn còn cảnh người bóc lột người, kẻ có quyền hà hiếp người yếu thế thì ở đó vẫn còn cảnh bất công, không có công lý và công bằng.

Tôn giáo cần phải phối hợp với chính quyền, giúp chính quyền, thúc đẩy chính quyền bằng mọi cách để thực thi công bằng và công lý để biến cải xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, nghĩa là khi chính quyền đi ngược lại lòng dân, làm điều thất đức, gây cảnh bất công trong xã hội thì tôn giáo / người Kitô hữu có bổn phận lương tâm phải lên tiếng yểm trợ những kẻ cô thế bị hà hiếp (20], bởi lẽ loan báo Tin Mừng không phải là chỉ phục vụ phần hồn mà bỏ quên phần xác, cũng không phải chỉ quan tâm đến ơn cứu độ cá nhân mà bỏ qua những thực tại xã hội trước mắt [21].

Đó mới chính là sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc một cách thực tế và cần thiết, không lý thuyết viển vông. Đạo và Đời không thể tách lìa nhau ở điểm này. « Sống chung » với cộng sản không có nghĩa là « chung sống », hòa đồng sống như người cs gian trá và mưu sỉ. Thiện không thể chung sống với ác. Người ta sống không phải bằng cơm gạo,… nhưng bằng lời Thiên Chúa (22). Muốn xã hội và Giáo Hội Việt Nam tốt đẹp, thoát khỏi những tàn tích xấu do cs đã và đang hoành hành, người công giáo, đặc biệt giới lãnh đạo, HĐGM, tất cả mọi người đều phải sống lời Chúa bằng hành động thực sự, cương quyết nói lên sự thật, điều sai trái để sửa chữa dù có bị áp lực, đe dọa, cực hình, dụ dỗ đầy mưu mô thâm độc (23).

Nói đến sự thật, chúng ta cần đặc biệt chú ý và cẩn thận.  Ở Việt Nam người ta sợ không muốn nhắc đến tên những vị tử vì đạo, đã dám tranh dấu vì niềm tin để bảo vệ Giáo Hội mà bị hành hạ, chịu chết trong ngục tù hoặc một cách mờ ám. Họ giữ yên lặng, không muốn nhắc đến tên TGM Nguyễn kim Điền, HY Trịnh như Khuê, cha chính Nguyễn văn Vinh v.v. nại cớ vấn đề tế nhị hay nhậy cảm. Tại sao ? Vì nhắc đến tên những vị đó là đụng vào cái ác của người cs như dụng vào tên húy vậy. HY Bonizac bình luận: con cái của dối trá đã thu nhặt từng mảnh vụn, yếu tố nhỏ của « bức màn », lợi dụng nó để ẩn náu, làm thành một lớp sương mù bao phủ sự thật về cả cá nhân lẫn tổ chức. Nhờ bức màn đó người ta reo mầm mống chia rẽ và nghi kỵ. Người công giáo chúng ta cần sự thật, vì Chúa là: « Đường và là Sự Thật » . Nếu ta tránh sự thật thì còn đâu là con Chúa. Trong cải đỗi xã hội, giới trẻ phải là ưu tiên. Họ cần được giúp đỡ, hướng dẫn để nhận biết ra sự thật của lịch sử và luôn luôn ghi nhớ trong tâm  khảm tên tuổi và tiểu sử của những vị đã vì Niềm Tin, vì Chúa, vì Con Người mà hy sinh mạng sống. Thật vô lý lấy tên vị thánh tử đạo đặt tên cho một nhà thờ, xứ đạo hay một cơ sở mà lại không dám nhắc đến tên những vị cũng là tử vì đạo. Phải cương quyết thoát khỏi cái vòng kim cô đó mà cộng sản, con cái của dối trá, gian manh đã đặt vào cổ chúng ta, mà nói cho mọi người, nhất là thế hệ trẻ sự thật của lịch sử.

Đừng để tình trạng ngăn cách con người với con người, và con người với Thiên Chúa tiếp tục xẩy ra.

Nguyễn Tiến Cảnh
Fleming Island, Florida
April 4, 2016

[1] .Việt Nam, tuy đã mở cửa phần nào về kinh tế và tôn giáo, bức màn sắt không còn, nhưng cốt lõi vẫn còn cộng sản. Tuyên bố cho Tự Do Dân Chủ nhưng vẫn áp dụng độc tài toàn trị. Do đó ta có thể coi VN vùa là nước cộng sản vừa là nước hậu cộng sản. Vì vậy việc tìm kiếm phương cách xây dựng một Giáo Hội đích thực quả là khó khăn, đòi hỏi những nhận xét thật sâu sắc, khôn ngoan và hành động thật cương quyết.
 [2] .Đức HY Stepinac là một TGM có tinh thần quốc gia mãnh liệt, chống cả Phat Xít và CS một cách quyết liệt, không nhân nhượng. Ngài bị CS Hung bắt tù khổ sai 15 năm. CS từ xưa và cả ngay bây giờ vẫn cố né tránh không nhắc đến tên ngài. Chẳng lạ gì ở Việt Nam, người ta cũng rất sợ, cố gắng né tránh khỏi phải nhắc tới một Đức Cha Nguyễn kim Điền, một HY Trịnh như Khuê, một cha chính Nguyễn văn Vinh của Hanội, một thày giảng Quế ở xứ Đoài, thày giảng Lung ở Ngọc Đồng, Hưng Yên v.v….
(3] Người Việt Nam tỵ nạn chính trị CS ở hải ngoại có dựng một bia đá để ghi nhớ những thuyền nhân đã chết trên đường vượt biên ở Nam Dương, nhưng đã bị nhà cầm quyền CSVN dùng ngoại giao áp lực chính phủ Nam Dương phải phá bỏ đài tưởng niệm đó trong khi họ vẫn kêu gọi xóa bỏ hận thù để hòa giải dân tộc xây dựng đất nước.
 [4] Người Saigon, Internet
 [5] Phúc âm Matthew 4: 10
 (6) Sách Pham Hân Quynh : Con người-Sự kiện-Giai thoại, 2012. tr.93-95
 (7) Phaolo Lê đức Trọng: Chứng Từ của một Giám Mục – 2009
 (8)  Phát biểu của TGM NGÔ QUANG KIỆT tại cuộc họp UBND thành phố Hanoi ngày 20-9 2008: Trước hết ông Chủ Tịch có nói rằng UBND thành phố đã tạo rất là nhiều điều kiện cho GHCG trong những năm qua, nhất là dịp lễ Noel…Chúng ta phải công nhận trong những năm gần đây có nhiều điều kiện.Tuy nhiên khi như thế, khi nói tạo điều kiện, vẫn còn mang cái tâm lý Xin-Cho, tức là cái này là ân huệ tôi ban cho anh đấy. Nhưng cái tôn giáo là cái quyền tự nhiện con người được hưởng. Và nhà nước vì dân, cho dân phải có rách nhiệm tạo cái điều kiện đó cho người dân  chứ không phải cái ân huệ chúng tôi xin. Không có. Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải cái ân huệ Xin-Cho…..
 [9] PHAM HÂN QUYNH:Con người-Sự kiện-Giai thoại- tr. 93-95): Đức Cha Trịnh như Khuê và cha Quynh, thư ký, đã gặp Thủ Tướng Phạm văn Đồng và Thủ Tướng đề nghị lập Ủy Ban Liên Lạc giữa nhà nước và Giáo Hội. Thủ Tướng đã chỉ định Luật sư Nguyễn thành Vĩnh, một người Nam tập kết làm đại diện cho chính quyền. Đức Cha Khuê không đồng ý, muốn người đai diện phai là người ngoài công giáo. Cuối cùng, nhà nước tự mình tổ chức thành lập Ủy ban liên lạc những người công giáo yêu tổ quốc yêu hòa bình, gồm các linh mục Vũ xuân Kỷ, Nguyễn tất Tiến và hai linh mục tập kết ra Bắc là Hồ thành Biên và Võ thành Trinh.
 [10] Linh mục NGUYỄN HỮU LỄ: Bút ký TÔI PHẢI SỐNG, trang 19. Đức GM Trịnh như Khuê bị giam lỏng, cô lập trong tòa giám mục hơn 20 năm. Hàng ngày ngài đi bách bộ đọc kinh trên sân thượng, vết chân ngài đi nhiều đến nỗi đã tạo thành một đường mòn in hằn trên gạch. Sau 1975 ĐC Khuê được đi Roma và Pháp. Lần thứ hai đi Roma lãnh chức Hồng Y, khi trở về nước qua ngả Moscov về tới Hanội thì ngã bệnh và chết một cách mờ ám, mặc dù trước đó ngài rất khỏe mạnh, không bệnh hoạn.
 [11] Tài liệu Nguyễn văn Lục
 [12] Đại Úy Kiều duy Vĩnh kể lại là ông bị giam tại trại Cổng trời 15 năm. Trong số hơn 60 người theo đạo Thiên Chúa Giáo bị bắt giam tại đây, từ linh mục đến giáo dân đều bỏ mạng tại đây. Không có ai trở về. Đặc biệt có cha Nguyễn văn Vinh, người nổi tiếng vì chống đối Đại tứong De Lattre De Tassigny trong việc xếp chỗ ngồi tại nhà thờ lớn Hanội. Tất cả những người công giáo trên đều bị kỷ luật đưa vào giam ở hang đá, trong đó rất lạnh, không ai có thể sống sót sau một tuần lễ (Ký Ức của Kiều duy Vĩnh). Ông Vĩnh trước khi qua đời đã trở lại đạo công giáo.
 (13) Lm Mai Xuân Hậu. Hồi Ký CHÚA GỌI. tr.68-71.
 [14] Phúc Âm Matthew 26: 41.
 [15]  HY  PĐT kể lại.
 (16)  Lm VHT kể lại HY Phạm minh Mẫn đã có lần sang Hoa Kỳ quyên tiền về giúp các cha hưu dưỡng được gần 1 triệu dollars, nhưng sau này hỏi đến thì nói là bị thất thoát vì kinh doanh.  Kinh doanh đầu tư hay đã nộp cho ai thì chỉ có Chúa biết.
 (17) Nhà hưu dưỡng các linh mục  gốc địa phận Hanoi ở Ngã Sáu Chợ Lớn bị Huỳnh công Minh đòi lấy để xây cư xá cho nữ sinh viên thời Lm Mai xuân Hậu về huu và làm quản đốc. Nhưng các cha già nhất định không chịu di dời đi chỗ khác.
 (18) PHẠM HÂN QUYNH: Con người-Sự kiện-Giai thoại-2012. Tr. 244
 [19] ĐMT. Chính sách đàn áp Kito giáo hiện nay tại Việt Nam
 [20] Phúc âm Luca 10: 29-37
 [21] Học Thuyết Xã Hội Công Giáo số 62.
 (22) Phúc âm Mathew 4: 4-7).
 (23) Thư gửi Giacobe 2:14-26