Lac Viet Humanistic Culture

Monday, August 21, 2017

TẠ PHONG TẦN GIỚI THIỆU MISSION SAN JUAN CAPISTRANO VỚI ĐỒNG HƯƠNG /P2



Little Saigon (VanHoaNBLV) – Nhà báo Tạ Phong Tần nhân chuyến viếng thăm Mission San Juan Capistrano đã giới thiệu đến đồng hương khu vực truyền giáo này với những di tích lịch sử, văn hóa quan trọng của tiểu bang California cùng ngôi nhà thờ đổ nát còn được bảo tồn sau trận động đất năm 1812.

Chương Trình Văn Hóa Nhân Bản Lạc Việt đã ghi lại phóng sự này của Tạ Phong Tần, Cựu Tù Nhân Chính Trị, Nhà Báo Tự Do, Blog Sự Thật & Công Lý vào ngày 2 tháng 7 năm 2017 tại Mission San Juan Capistrano, 26801 Ortega Hwy, thuộc thành phố San Juan Capistrano, Orange County, miền Nam California, Hoa Kỳ.

TẠ PHONG TẦN - KỲ BÍ PHẾ TÍCH NHÀ THỜ CHIM ÉN

Những ngày nghỉ trong dịp lễ July 4 vừa qua, thay vì đến những nơi nhộn nhịp để giải trí, không ít người vẫn muốn rời xa chốn kinh thành đô hội để tìm về nơi mang “Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” (Thăng Long thành hoài cổ – Bà Huyện Thanh Quan) để thư giãn tinh thần. Một trong số địa điểm lôi cuốn đầy màu sắc huyền thoại đó là nhà thờ cổ Mission San Juan Capistrano.

Mất hơn nửa giờ lái xe từ thủ đô của người Việt tị nạn Little Sài Gòn (quận Cam), rồi chúng tôi cũng đến được nhà thờ Mission San Juan Capistrano, tọa lạc tại địa chỉ 26801 Ortega Hwy, San Juan Capistrano, tiểu bang California. Tuy nhiên, cư dân địa phương không gọi nó là Mission San Juan Capistrano, mà dùng một tên gọi nôm na, gần gũi hơn: Nhà thờ Chim Én.

Nguồn gốc của cái tên này là vì Tháng Ba hàng năm, sau thời gian bay đi trú Ðông thì chim én lại kéo nhau nườm nượp về nơi này làm chỗ trú ngụ cho đến đầu mùa Ðông năm sau. Tiếc rằng chúng tôi đến nhà thờ Chim Én vào những ngày này không được tận mắt chứng kiến từng bầy chim én bay liệng đông nghịt trên bầu trời, nên không thể quay phim, chụp ảnh hầu quý bạn đọc được.

Ban đầu, nơi đây chỉ có thổ dân da đỏ sinh sống. Khi mà Orange County còn là vùng đất hoang vu chưa được khai phá thì vị linh mục Tây Ban Nha có công xây dựng và lập nên Tu viện cổ này vào năm 1776 là Cha Serra, nên còn có tên gọi khác là “Nhà thờ của Cha Serra”. Tiếc rằng, đến năm 1812 nó đã bị một trận động đất tàn phá. Tất cả chỉ còn lại là đống đổ nát trên nền nhà và những bức tường trơ trụi. Từ đó, nó có thêm tên là Nhà Thờ Ðổ. Sau này, người ta đã dời vị trí Thánh đường mới sang khu đất gần đó, và nơi đây gần như được bảo tồn nguyên vẹn để ghi dấu chứng tích của gần 300 năm về trước cho hậu thế chiêm ngưỡng kỳ công kiến tạo của tiền nhân.

Nổi bật trên tòa nhà thờ đổ nát là tháp chuông và những chiếc chuông đồng cổ được đúc từ những năm 1796 nay đã bám một lớp dày rỉ đồng màu xanh lá cây. Bên cạnh phế tích này là bức tượng Cha Serra đúc đồng cao bằng người thật.

Bao quanh khu nhà thờ là bức tường xi măng được trồng phủ ngoài rất nhiều loại xương rồng khổng lồ. Sau khi mua vé $9/người vào cổng, chúng tôi bắt đầu lượn vòng quanh khu vực đổ nát này. Khu đất rất là rộng, Thánh đường chính xây bằng đá trắng và vôi vẫn còn nguyên các bức tường, các dãy phòng bên trong với rui mè bằng gỗ to lớn, lợp ngói đất nung đỏ, tất cả đã rêu phong, mốc trắng với thời gian. Từng dãy hành lang với cửa tò vò chạy dài thăm thẳm suốt bốn mặt khu đất, chính giữa là khoảng sân trống rất rộng trồng nhiều cây cối, hồ phun nước nhân tạo trồng hoa súng. Chúng tôi càng ngạc nhiên hơn khi thấy ở sân giữa này có rất nhiều cây xương rồng thuộc hàng “lão làng” cao quá đầu người hàng sải tay, với đủ thứ chủng loại. Có thể gọi nơi đây là khu bảo tồn xương rồng cũng không có gì là quá đáng.

Tường xây bằng gạch làm từ đất sét nung đỏ dày đến ba gang tay, có nơi dày phải đến năm gang tay. Vì vậy, thời tiết ngoài trời đang nóng bức, nhưng đứng trong các căn phòng cổ và hành lang của chúng thì cảm giác mát rượi.

Chúng tôi nhìn thấy những chiếc ghế gỗ để dọc hành lang bóng loáng vì qua nhiều năm sử dụng, nhà bếp với các dụng cụ nấu bếp thời xa xưa của người da đỏ, những chiếc giường ngủ mà chỉ có khung gỗ đóng chặt bốn chân xuống đất, bề ngang chừng bốn gang tay, mặt trên đan bằng dây da thiệt làm chỗ nằm, vũ khí thô sơ, yên ngựa, nón sắt, quần áo, bàn ăn… của chiến binh thời xưa. Có những bức tranh tường vẽ cảnh các chiến binh và gia đình họ.

Lại có cả khu sản xuất gạch đất nung, khu dùng thuộc da, bếp nấu ăn rất lớn xây bằng gạch nung lộ thiên ngoài trời, các dụng cụ lưu dấu một lò rèn thời xưa, lò nấu kim loại cũng đào sâu xuống đất và xây bằng gạch nung ở ngoài trời. Thỉnh thoảng, cạnh lối đi, chúng tôi bắt gặp những chiếc thùng gỗ có đai sắt bọc quanh và dây thừng cuộn tròn trong thùng, có cảm giác như những chiếc thùng này người ta vừa mới dùng xong rồi để ở đây.

Dưới một gốc cây cổ thụ rất lớn là cái giếng cổ, thành giếng cũng xây bằng gạch nung. Bây giờ, người ta đã làm nắp đậy bằng sắt đậy lên trên để du khách khỏi phải ngã xuống, nhưng vẫn có chỗ cho họ ném tiền lẻ xuống giếng như một hình thức cầu may, lấy phước. Những chiếc xe kéo có bánh xe bằng gỗ nằm cạnh lối đi, dụng cụ để người ta ép dầu olive và ép nho làm rượu.

Ngày nghỉ lễ nên khu thư tịch cổ cũng đóng cửa thành ra chúng tôi không vào xem được, nhưng cũng thỏa mãn trí tò mò khi được xem chiếc tủ sách cổ nho nhỏ phía phòng trưng bày vật dụng của các linh mục sáng lập nhà thờ, với những quyển sách cũ kỹ đóng bìa da thật dập chữ nổi mạ vàng đã sờn mòn gáy và phai màu với thời gian, thứ mà tôi chỉ được nhìn thấy qua phim ảnh hay mô tả trong sách thì nay được nhìn thấy tận mắt.

Mất một ngày lê lết đến mệt bã hết cả người nhưng chúng tôi chưa khám phá hết những điều bí ẩn ở tu viện cổ này. Ngày xưa, Thôi Hiệu đến uống rượu ở lầu Hoàng Hạc đã viết: “Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ?” (Hoàng hạc lâu- Bản dịch của Tản Ðà). Riêng tôi khi thăm tu viện đổ nát này, tôi có cảm giác như những thổ dân da đỏ, các linh mục, tu sĩ vẫn đang ra vào, sống và làm việc ở đây. Vẫn nghe thấy quanh quẩn đâu đây giọng nói rì rầm, tiếng cười hiền hòa, tiếng bước chân mang dép da quai dây buộc nhẹ nhàng lẫn trong hồi chuông chiều ngân dài trong gió.

Tạ Phong Tần

No comments:

Post a Comment